Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cột mốc mùa Xuân

28/01/201108:38(Xem: 5858)
Cột mốc mùa Xuân

Nếu chọn một số tròn để ghi lên cột mốc thời gian của những mùa Xuân lạc xứ, xa nhà thì tôi sẽ đề số 35/30 trên cột mốc năm nay.

Đây không phải là số tuổi chín muồi của một cặp vợ chồng lý tưởng; cũng chẳng phải là hai con số cặp kè của sự phân chia bí ẩn nào đó. Nó chỉ đơn giản như những mùa xuân qua đếm bằng cuốn lịch trên tường và tóc bạc trên đầu. Con số đó là dấu chỉ của dòng thời gian nhớ nhớ, quên quên: 35 năm sống trên quê mẹ và 30 năm sống ở quê người. Ở tuổi về hưu, một người sống gần trọn đời giữa hai thế giới. Người ấy sẽ là ai ở giữa mùa Xuân?

Tôi tự vẽ chân dung mình. Rướn người, cố nhìn mình thật kỹ trong gương. Người xưa nói “tâm viên, ý mã”, nghĩa là tâm thay đổi chuyền cành nhanh như vượn; ý lao vun vút như ngựa chạy đường xa. Thế nhưng tâm lý con người vẫn không chạy đuổi kịp với thời gian…

Người trong gương, ông là ai thế?! Dưới mái tóc muối tiêu – muối nhiều tiêu ít – đó là khuôn mặt góc cạnh pha nếp nhăn của một ông già châu Á. Ba mươi năm ở Mỹ, ông đã đổi thức ăn, thức uống, thức dùng. Những bữa ăn ít dần mắm muối tương cà. Những bữa uống nhạt dần hơi men rượu gạo làng Chuồn, nếp than Đồng Tháp. Những đồ dùng từ tứ xứ tinh tươm. Nhưng nhìn kỹ ông hôm nay, ông cũng vẫn là một ông già của xóm Bàu, xóm Kên, xóm Cụt làng Liễu Hạ. Đã mấy chục năm rồi, ông không còn mặc áo tơi đi trong mưa lạnh rát mặt của mùa Đông xứ Huế. Ông ngỡ như đã quên những bếp củi than, lồng ấp mùa Đông; quên cái quạt mo phành phạch mùa Hè; quên tiếng ve đất và tiếng chim cu gáy buồn buồn gọi nhớ cuối Thu. Nhưng sao ông vẫn nhớ nhà, nhớ luống cải vàng của mẹ trồng, nhớ nhà thờ họ, nhớ cổng chùa làng, nhớ mái đình xưa đầy hương khói. Nhớ quặn mình muốn khóc như trẻ thơ khi mỗi năm Tết về: Nhớ mẹ! Bà Mẹ Quê Việt Nam không phải chỉ là người mẹ sinh con ra và nuôi con khôn lớn. Nếu đem lửa thử vàng thì bà là vàng ròng trong ngọn lửa. Chiến tranh, đói nghèo, gian nan là thế mà bà vẫn gánh một đầu thúng này là con thơ và đầu kia là sự sống còn của đàn con trong cơn nguy biến.

Thì ra, người ta chỉ già theo nhân dáng, nhưng không già trong tình tự quê hương. Tự xét hoàn cảnh riêng mình và các bạn cùng trang lứa và hoàn cảnh, tôi khó mà không đồng tình với nhà tâm lý học cừ khôi hàng đầu của Mỹ là Erik Erickson khi ông ta nói về sự hình thành bản sắc của mỗi con người (establishment of personal identity) đã hoàn thiện và chấm dứt hoàn toàn trong 30 năm đầu của một đời người: 10 năm đầu cho bản sắc tuổi thanh xuân, 10 năm tiếp theo cho bản sắc tình cảm, tư tưởng và 10 năm sau cho bản sắc văn hóa. Một người sinh ra và trưởng thành trên một vùng đất nào đó tới 30 tuổi thì dẫu muốn hay không họ đã hoàn toàn thuộc về nơi đó. Một “Erickson thi sĩ” Việt Nam là Chế Lan Viên đã viết về tâm lý: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn.” Tâm hồn là cách gọi khác của một gốc rể vô hình đã nằm trong góc khuất của mỗi con người. Người ta hy sinh thân mạng để đấu tranh với ngoại xâm và nội thù cũng chỉ vì dính mắc với quê hương.

Sự phát triển tâm lý ngỡ như nghịch chiều nhưng lại là một hiện thực của tuổi già nơi xứ lạ. Tuổi về hưu như một bãi sa bồi đã qua nhiều cơn sóng gió. Những bụi cát phù sa lắng xuống. Đá sỏi hiện nguyên hình và nhận ra nhau. Đó là lúc tuổi già lắng lòng nhớ quê xưa và những khuôn mặt thân yêu ngày cũ. Nơi xứ người, nếu nguồn tình cảm nầy vắng bóng thì làm sao có được những phố Tàu, phố Nhật, phố Việt, phố Đại Hàn tại nhiều thành phố lớn trên các xứ Âu Mỹ đã tự phát từ buổi di dân ban đầu cho đến ngày nay. Người Việt xa xứ vẫn tha thiết tìm lại một “Little Saigon” nơi thành phố mình đang ở như tha thiết với một bản sắc tình cảm quê hương đang bị chôn vùi tên tuổi. Vì dẫu cho có về lại quê xưa, một Sài gòn lãng tử với “khung trời đại học; con đường Duy Tân cây dài bóng mát” đã mất như mất cả tiếng pháo mùa Xuân.

Có một sinh viên Việt Nam trên 30 tuổi, qua Mỹ du học, kết hôn, ở lại. Sau 5 năm ở Mỹ, anh được vào quốc tịch Mỹ và cũng là năm anh tốt nghiệp văn bằng Cao học. Một lần, sau giờ học về quan niệm bản sắc cá nhân của Erickson, anh hỏi: “Em vừa được vào quốc tịch Mỹ và muốn làm đơn xin từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Xin thầy giúp ý kiến.” Tôi góp ý: “ Em và tôi đều rời đất nước ở lứa tuổi khi bản sắc nòi giống của cá nhân mình đã được xác lập. Bản sắc nòi giống đã biến thành tâm hồn. Người ta có thể chuyển hóa, nhưng không thể từ bỏ được tâm hồn. Thủ tục và tên gọi chỉ là nhãn hiệu bên ngoài chai nước mắm, chẳng có gì quan trọng.”

Mấy lần về thăm quê, bạn bè thân tình hỏi tới: “Ở Tây, ở Mỹ lâu vậy mà bạn có bị lai căng, mất gốc gì không?” Tôi đùa mà rất thật: “Lai rai thì có nhưng lai căng, lai giống thì không!” Lai rai… thì có vô số chuyện để bàn. Cái lai đầu tiên là tiếng “Dạ” và “Không”. Trước một câu hỏi: “Ông không thích mắm ruốc à?” Mỹ trả lời: “Không, tôi không thích”. Việt trả lời: “Dạ (vâng), tôi không thích.” Hay ngắn hơn: “Dạ không!”. Dịch ra tiếng Mỹ là “Yes/no!” Người Mỹ la làng, cho tiếng Việt là không rõ ràng giữa có và không. Thật ra, vì họ chưa hiểu rõ ràng về cái suối nguồn văn hóa bao la trong một câu trả lời ngắn gọn: “Dạ” trước là để bày tỏ mối quan hệ với đối tượng đang hỏi; rồi mới tới phần sau là ý kiến của riêng mình. Đó là một sự biểu hiện giao tình giữa người với ta; giữa cá nhân mình với bà con làng trên xóm dưới. Trong lúc người Mỹ với văn hóa đậm tính cá nhân, họ xác định ngay ý kiến riêng của mình từ tiếng “không” phủ nhận đầu tiên. Bởi vậy mà dân Âu Mỹ đặt Tên trước Họ; người Việt đặt Họ trước Tên.

Khi tiếp cận với một nền văn hóa mới, người ta mới thấy được những viên sỏi thường ngày trên đất nước của mình, có khi lại là những hạt quý trên xứ người: Đó là tiếng cười. Cười là một thứ ngôn ngữ không lời cao cấp nhất của văn hóa mà mình vô tình coi nhẹ nó như nắm xôi thằng Bờm. Xa xứ rồi, nếp cười hiện lên như một tiếng vọng nhắc nhở cội nguồn.

Người Việt đã trưởng thành trên quê hương khi tới xứ người có thể nói lưu loát và hùng biện những chuyện triết lý, văn chương, kỹ thuật bằng tiếng Tây, tiếng Mỹ nhưng lại rất ít người có khả năng chuyển tải qua, lại những “thông điệp cười” thống khoái trong tương quan sinh hoạt với người nước ngoài. Khó mà chia sẻ, hiểu hết được cái tinh túy trong Ngôn Ngữ Cười của một dân tộc. Đã gần ba mươi năm, thường xuyên làm việc và sinh hoạt trong thế giới người Mỹ, nhưng tôi cũng như hầu hết bạn bè cùng lứa hay một người bạn tuổi đã 70, du học Mỹ từ năm 1958 ở tuổi hai mươi, vẫn bị lạc xa tít mù khơi trong những câu chuyện khôi hài (joke) của người Mỹ và có lẽ cũng là trường hợp ngược lại, khi chúng tôi cố chia sẻ với người Mỹ chuyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai Tú Xuất, rút từ trong kho tiếu lâm xứ mình. Tiếng cười khó thật. Chỉ là đôi tiếng “hì, hì”, không văn phạm, không câu kéo, không nội dung bí hiểm mà học một đời chắc gì thuộc nổi. Khó nhất đời là chuyện… sắc không!

Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình và tẩn mẩn làm thơ – thơ 35/30 – trong cái lãng mạn xuôi dòng thời quá khứ có chút khật khừ lý tính phương Tây:

Chiều cuối năm ta ngồi nhìn nẻo ý
Trôi hoang vu như mây trắng trên trời
Đêm vắng vẻ thân tâm về rỗng lặng
Thoảng hương Xuân mùa Tết đến nơi rồi
Ta thấy được mình khi đếm từng hơi thở
Gió đêm len vào cửa trống ơ hờ
Chút mỏi nãn lắng nghe hồn suy tưởng
Không buộc ràng buông xả cõi vu vơ
Tiếng vĩnh cửu thay dòng đời du tử
Hiện bóng trong ta em còn đứng đó
Tiếng giỗi hờn ký ức thưở xa xưa

New Year Eve I sit and watch my thoughts
Come and go wildly like clouds in the sky
But tonight it is clear and all empty
I smell fragrance of the Spring and the Tet
Always in my mind when counting breaths
A night breeze enters through the open window
Tired of listening to my thoughts
Give the mind a rest
Listen to the eternity instead
Oh dear there it is
The whine of returning memory

Lâu ngày đón những Noel thay cho ngày Tết, nhưng quê người vẫn váng vất hương Xuân. Bởi thế, ngày đầu năm dương lịch mà dân mình hay gọi là “Tết Tây” nơi xứ người chỉ còn lưu lại nỗi nhớ. Tuổi càng cao, nỗi nhớ càng thấm thía mà rất tự nhiên như cảm xúc tự mình nhìn nhìn sâu hút vào chính mình. Nhớ nỗi buồn và nhớ tiếng cười ngoài sân, đầu ngõ của người thân, bạn bè. Vì cười nó vừa đơn giản mà cũng vừa khó kiếm đến như thế nên xin được ghi thêm một chữ quan trọng lên Cột Mốc Mùa Xuân 35/30: Cười!

Trần Kiêm Đoàn
Sacramento, Cali. Trước ngõ mùa Xuân 2010


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/02/2011(Xem: 4774)
Nhân nói về mùa XuânDi-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêmvề một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước. Theo Wikipedia, mộtsố các nhà Phật học như các vị giáo sư Erich Frauwallner, Giuseppe Tucci, vàHakiju Ui cho rằng Luận sư Di-lặc (Maitreya-nātha– khoảng 270-350 TL)là tên một nhân vật lịch sử trong 3 vị luận sư khai sáng Du-già hành tông (Yogācāra)hay Duy thức tông (Vijñānavāda)...
31/01/2011(Xem: 7565)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
28/01/2011(Xem: 4332)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
25/01/2011(Xem: 3957)
Đón năm mới, ai cũng mong muốn mọi việc đều mới. Mới ở đây mang ý nghĩa may mắn, bình an, khá giả hơn những gì đã xảy ra trong năm cũ.
23/01/2011(Xem: 2979)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc? Đơn giản, đó là khi chúng ta có được một lợi ích nào đó hoặc đang làm một lợi ích nào đó cho mình. Vậy thì, lợi ích cho chính mình là hạnh phúc. Và lợi ích ấy bao gồm cả thân tâm, nghĩa là lợi ích phải bao gồm cả vật chất và tâm thức. Hạnh phúc phải bao gồm vật chất và tâm thức, thân và tâm, nên chúng ta vẫn thường chúc “Thân tâm thường an lạc”.
22/01/2011(Xem: 3234)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
21/01/2011(Xem: 3827)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông, nóng nảy của mùa Hạ hay vẻ đìu hiu của mùa Thu.
21/01/2011(Xem: 4665)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp, thư thái nâng chén trà ngon, cho nhau một chút tình đời ý đạo, còn gì thú vị hơn! Trà là thức uống có từ rất xưa, gắn liền với đời sống con người Á Đông, nhất là người Việt Nam. Trà có mặt trong đời sống của ta từ khi ta sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời (người chết được liệm bằng trà), trà như là một phần tất yếu của đời sống.
21/01/2011(Xem: 2784)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy rừng mai cổ Yên Tử phải được gìn giữ, bảo tồn... Mai, lan, cúc, trúc được người đời tôn là tứ quý và được coi là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mai vàng là một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp xuân về.
21/01/2011(Xem: 3073)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567