Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hương Xuân Trong Cõi Thơ Thiền

10/01/201105:37(Xem: 4383)
Hương Xuân Trong Cõi Thơ Thiền

hoa_mai_9


HƯƠNG XUÂN TRONG CÕI THƠ THIỀN
Thích nữ Tịnh Quang


Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.”

(Ý Kinh Pháp Hoa)

Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày và sự chuyển giao của đất trời để vẫy vùng sự sống. Vẻ đẹp của mùa xuân đã thêu dệt nên những vần thơ rạng ngời hương sắc qua cảm hứng của kim cổ thi nhân; song song với cảnh sắc huy hoàng đó, các thi nhân cũng đã gợi lên vô vàn hình ảnh xuân thì của các cô gái nõn nà hay những mảnh tình xuân phơi phới được thì thầm trong cõi thi ca lung linh sắc màu xuân biếc. Đi vào cõi thơ xuân, bên cạnh những thinh sắc lộng lẫy của trời xuân, chúng ta có thể nhận ra sự nồng nàn, nỗi khát khao vòi või và hụt hẫng khôn nguôi của các thi nhân đối với xuân, bởi vì mùa xuân cứ đến và đi, hững hờ như nước xuôi cầu, và thi nhân thì cứ muốn lưu giữ lại bóng dáng yêu kiều thuở nao của nàng xuân vô thường đó, rồi nức nở… Vượt lên trên những khát vọng về tình sắc mong manh của xuân, các thiền sĩ đã tạo nên một cõi xuân thi với gam màu riêng biệt qua bút pháp thanh tao tiêu nhã và bằng cảm quan siêu thoát trong đời sống bọt bèo hư ảo. Cứ mỗi mùa xuân về lật từng trang thơ thiền, chúng ta có cảm tưởng như đang sống trong cõi xuân huyền nhiệm, rưng rưng đâu đây hoa vàng sắc biếc trong cuộc đời đầy giá buốt xa xăm.

Mở đầu tông phong trong cõi Thiền xuân này là bài thơ Cáo Tật Thị Chúng nổi tiếng của Thiền sư Mãn Giác (1052-1096)- vị cao tăng thời Lý. Bài thơ chỉ có vỏn vẹn ba mươi bốn chữ trong sáu câu nhưng đã bao hàm toàn bộ tư tưởng tinh hoa của Thiền học cũng như tính thể của nguồn thơ,

春去百花落 春到百花開

事逐眼前過

老從頭上來

莫謂春殘花落盡

庭前昨夜一枝梅

Nếu vẻ đẹp của Đường thi là nỗi xuyến xao vời vợi về hai nàng xuân, một trở về một biền biệt như:

“Hoa đào (vn) cưi ct gió đông
Mà nay chng thy bóng hng nơi nao”
(Nhân din bt tri hà xkh
Đào hoa y cu tiếu đông phong). (Đề Đô Thành Nam Trang-Thôi Hộ )

thì vẻ đẹp của Thiền thi trong thơ của Thiền sư Mãn Giác là linh thể bất diệt ngay trong đêm tối diệt sinh, và được phát họa sinh động qua hai câu kết bằng một cành mai vàng nở giữa đêm khuya trước khi xuân đã tàn hoa đã rụng nhưng nào ai hay biết:

“Đng nói xuân tàn hoa rng hết
Đêm qua sân trưc mt cành mai.
(Mc vxuân tàn hoa lc tn
Đình tin tc dnht chi mai.)

Mặc dầu chất xuân trong Thiền thi của Thiền sư Mãn Giác không tạo ra nỗi khắc khoải mông lung nghìn đời của nhân thế hoặc không muốn gây nên cảm giác chơi vơi cho người yêu thơ, nhưng bài thơ này đã có một bước bộc phá mới và thôi thúc chúng ta đi tìm sự bí ẩn đã tạo nên vẻ đẹp thanh thoát ly kỳ về nó. Bí ẩn này có thể tạm thời được biết như là cành tâm xuân luôn hiện hữu trong dòng đời buồn tẻ phù hư.

Có thể từ âm hưởng của cành mai Mãn Giác mà các thế hệ Thiền thi Việt nam về sau đều đã tạo nên những sắc phong của cõi tâm xuân thay vì mô tả khung cảnh hữu tình của bướm hoa mây nước:

“Xuân sang hoa bưm khéo quen thì,
B
ưm ling hoa cưi vn đúng kỳ,
Nên bi
ết bưm hoa đu huyn c,
Thây hoa m
c bưm đlòng chi.”

(Xuân lai hoa đip thin tri thì,
Hoa đi
p ưng tu tin ng kỳ,
Hoa đi
p bn lai giai thhuyn,
M
c tu hoa đip vn tâm trì).(Giác Hải thiền sư)

Với tư tưởng “nhậm vận” nên các Thiền sĩ chẳng thấy xuân còn hay mất để rồi ôm ấp những hoài niệm hay mơ về một tiếng pháo xưa khi mùa xuân qua đi:

“…Năm ba ngày na tin xuân đến,
Pháo trúc nhà ai m
t tiếng đùng.”(Nguyễn Khuyến)

Đối với Thi nhân, sự xoay vần của mùa xuân và nỗi khát khao về nó đã bắc nhịp cho thơ giao cảm được tiếng lòng của nhân thế; nhưng một lúc nào đó nhà thơ bỗng cảm thấy ê hề với những khát ái bất tận của chính mình trước sự hữu hạn của xác thân như một nghịch lý của tâm và cảnh:

“Ngán ni xuân đi, xuân li li,
M
nh tình san stí con con.”(Hồ Xuân Hương)

Mảnh xuân vô thường kia cứ đi đi lại lại khiến cho tình đời thêm già nua và tẻ nhạt, vì vậy nhà thơ cứ mãi ao ức níu kéo hương sắc của xuân với thời gian không bến đợi:

“Tôi mun tt nng đi
Cho màu đ
ng nht mt;
Tôi mu
n buc gió li
Cho h
ương đng bay đi.”(Vội Vàng-Xuân Diệu)

Trong khi đó thiền nhân đã có được những phút giây tương ngộ với mảnh chân xuân trong thời gian vô cùng và ý thức về chiếc bóng choàng trên cái sinh thức phiêu bồng vô hạn nên đâu có sắc màu để héo úa nhạt phai:

bao thiên niên k, nhìn mây nưc
git mình, thy bóng vn không phai..”(Lãng Mạn Khúc Du Xuân-CS Liên Hoa)

Chiếc “bóng không phai” là linh thể tối thượng không nhuốm sắc màu thời gian, không bị chi phối bởi bốn mùa mưa nắng rồi cuống lên vì lo sợ ngày xuân vun vút trôi qua “mau vi chthi gian không đng đi.” (Xuân diệu). Không vồn vã rượt bắt mùa xuân, Thiền thi phác họa nhãn quan linh động với cái nhìn thiền quán về lẽ sắc-không khi mùa xuân đến:

“Tui trchưa tưng rõ sc - không
Xuân v
hoa bưm rn tơlòng
Chúa Xuân nay b
ta khai phá
Chi
ếu tri giưng thin, ngm cánh hng."
(Niên thi
ếu hà tng liu sc, không
Nh
t Xuân tâm sbách hoa trung
Nh
ưkim khám phá Đông Hoàng din
Thi
n bn bđoàn khán try hng.) (Phật Hoàng Trần Nhân Tông)

Trên căn bản quán chiếu, thơ thiền không bị lôi kéo vào thiên kiến vui buồn thương tiếc của thế nhân với những nỗi chập chờn đơn lạnh nghìn đời của nhân thế khi ngày xuân không bao giờ trở lại như Đông Hồ đã tâm sự:

“Tưng bng hoa nthm ngày xuân
R
c rlòng cô hoa ái ân…
Cô bu
n, cô tiếc, cô ngùi ngm
Cô nh
ngày xuân nhtui thơ.”(Cô gái xuân)


Tuy nhiên một vài thi nhân tài hoa của làng thơ cũng không kém phần kiêu hãnh và ngang tàng khi ghép rượu đề thơ để tạm quên đi ngày tháng đất trời, để không còn bị câu thúc trước sự tàn nhẫn của thời gian đã làm đau thương trái tim của họ. Như Lý Bạch đã thổn thức: “Đi chlà gic mng ln, cgì mà bn lòng, cho nên ta ung rưu say lúy túy, khi tnh rưu mi hay ra xuân v, chim hót trong cành hoa, chng biết hôm nay là ngày nào, ri nhng cm xúc ct lên, ta nghiêng bình rưu trưc cnh sc huy hoàng, và hát khúc chtrăng sáng, khi khúc ca va dt thì tình cũng đã va quên.”

(Xthếnhưc đi mng
H
vi lao kỳ sinh
S
dĩ chung nht túy
Đ
i nhiên nga tin doanh
Giác lai mi
n đình tin
Nh
t điu hoa gian minh
Tá v
n thhà nht?
Xuân phong ng
lưu oanh
C
m chi dc thám tc
Đ
i chi hoàn tkhuynh
H
o ca đãi minh nguyt
Khúc t
n dĩ vong tình.) (Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn chí)

Tại sao những nhà thơ lớn đôi khi phải dùng đến men rượu như để thách thức và vượt qua những khổ lụy của đời thường? phải chăng trong cơn men say người ta mới cảm giác rằng trường đời là mộng mị? cho nên để đạt được tâm trạng sảng khoái này nhà thơ phải mượn bình rượu như một thú tiêu dao siêu thái trong cõi “siêu phàm nhập thánh?”

”Thơmt túi phm đcâu nguyt l
Rưu ba chung tiêu sái cuc yên hà.”(Nguyễn Công Trứ)

Trong cõi Thiền, vạn vật là đối tượng để cho người nhập đạo quán chiếu và trãi nghiệm; trong đời sống thường nhật cũng như trong thi ca, thiền không tạo ra những cảm giác khắc khoải chập chờn giữa mộng và thực thay vì nó điều phối sắc màu mùa xuân qua cái nhìn về thực tại một cách sinh động và hài hòa:

Trúc biếc hoa vàng đâu cnh khác
Trăng trong mây bc hin toàn chân.
(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoi cnh
Bch vân minh nguyt ltoàn chân.)(Thiền Lão Thiền Sư)

Hay

"Trùng dương Cúc ndưi rào
Trên cành Oanh hót thanh tao du dàng." (Thiền sư viên Chiếu)

Xa hơn, thơ thiền vượt thoát yếu tố của định luật nhị nguyên được giới hạn giữa người và cảnh, giữa tâm và vật, giữa một và hai …: Sông xưa chy mãi làm đôi ng, ta biết xuân nhau có mt thì.(Cô Lái Đò-Nguyễn Bính). Thiền thi tiêu diêu trong vẻ đẹp thanh thoát của đóa xuân vô tướng mà nhà thơ đã cảm nghiệm và tương phùng trong cái nhìn vô sai biệt:

"Ngưi trên lu hoa dưi sân
ưu ngi ngm khói trm xông
Hn nhiên ngưi vi hoa vô bit
Mt đóa hoa vàng cht ntung"
(Hoa ti trung đình, nhân ti lâu
Phn hương đc ta tvong ưu
Chnhân dvt hn vô cnh
Hoa hưng qun phương xut nht đu.)(Thiền sư Huyền Quang-bản dịch của Nguyễn Lang)

Người với hoa không là hai, chỉ có sự nở tung của cành hoa hay là thực tướng nghìn đời hiển hiện trong giây phút thực tại mầu nhiệm; với lối diễn đạt này giúp cho người đọc thôi đi việc đuổi hình bắt bóng thay vì trực nhận ảo giác của chính mình trên cành xuân đó:

“ Hoa pháo đthm này
Mơxuân bkia
Đôi bđu nhưmng
Xuân - Thu đâu kìa?”(Xuân cảm-Vĩnh Hảo)

Vì quá nao nức nên thi nhân không thể nhận diện được mùa xuân hiện hữu ngay tại đây trong phút giây hiện tại và không thể sống trọn vẹn ngay cả trong cuộc mộng du của chính mình:

“Vì say sưa quá nên tôi đã
Đem đhn xuân xung sui h!”(Xuân-Nguyễn Bính)

Mùa xuân trong thơ thiền không có pha chế những sắc màu man mác, thương sầu lẫn lộn để thôi miên người đọc cùng thổn thức nhịp đập chung của trái tim nhân thế hoặc “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây,” nhưng nó vẽ nên một phong thái dung nhiếp thực tại giữa người và cảnh hay đúng hơn là bản chất “tuỳ duyên” trong bối cảnh không-thời gian khác biệt: xuân nương du thảo địa, hạ hưởng lạc hạ kỳ…” Với điểm nhắm vào thực tại, Thiền thi dù vô tình hay cố ý cũng đã quên đi sắc màu thời gian quá khứ:

Sng ngày nay biết ngày nay
Còn Xuân Thu trưc ai hay làm gì!
n tri kim nht nguyt
Thùy thc cu Xuân Thu.)(Thiền Lão Thiền Sư)

Vì theo nhãn quan của thiền, quá khứ hay tương lai đều nằm trong khoảnh khắc ý thức; cuộc đời khác gì giấc mộng Trang Sinh, cho nên ý niệm về thời gian xa và gần trước hay sau cũng chỉ là ảo tưởng phủ choàng ảo tưởng; cho nên tự nghìn đời xuân chẳng có gì xa xôi cả:

“Ta gi xuân v, xuân bưm bay
Trang Sinh nm mng biết bao ngày
Thi gian dù có nghìn năm na
Xuân đến lâu ri ai có hay.”(Gọi Xuân Về-Huyền Không)

Hay nói theo cách của thi sĩ Bùi Giáng:

“Thưa rng ly bit mai sau
Là trùng nggia hương màu Nguyên Xuân.”(Chào Nguyên Xuân)

Với lập trường “phản bổn hoàn nguyên” và tư tưởng lạc quan, các Thiền sĩ đã thổi chất xuân vào hồn thi ca Việt Nam một cách siêu thái. Ý niệm về bản thể tuyệt đối được lồng trên sắc màu xuân cảnh và tạo nên sự hài hòa giữa chủ thể và đối tượng qua nội dung và cấu trúc của mạch thơ. Chu du trong cõi thơ thiền, người mới vừa nhập môn có cảm thái bàng hoàng như chợt nghe tiếng pháo xuân nổ vang giữa mộng và thực, giữa tỉnh và say, nhưng sau phút giây ngơ ngác đó không ai không một lần ước ao tương ngộ cảnh giới bí huyền với lãng đãng đâu đây cành mai nở vàng trong đêm tối khi xuân đã âm thầm hờ hững ra đi.

Thích nữ Tịnh Quang
Chùa Huê Lam, Garden Grove 2011




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/01/2020(Xem: 5335)
1/ Mừng Xuân Mới (Vũ Quang Vinh) 2/ Xuân Vãn - Nhất Chi Mai (Ngọc Huyền) 3/ Xuân Tươi (Phạm Minh Hữu Tiến) 4/ Xuân Lễ Phật (Vũ Quang Vinh) 5/ Xuân Tỉnh Mộng (Ngọc Huyền) 6/ Mừng Xuân (Phạm Minh Hữu Tiến)
21/01/2020(Xem: 3737)
Phải chăng trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta không thể quên chức trách của bản thân, không thể quên những người có ân với mình, không thể quên những lời mình hứa hẹn, lại càng chẳng thể lãng quên lịch sử hay ngày Tết quê hương. Và vì vậy hôm nay cho phép mình kể lại những tập tục mà không bao giờ mình quên được để thực hiện hằng năm vào đêm Giao Thừa bạn nhé Từ khi được sinh sống tại Úc thì trong gia đình tôi ( có lẽ về lễ nghi tôn giáo thì tôi là người có quyền lực nhất ) cho nên tôi thường đón lễ Giao thừa hai lần và trang trọng như nhau và có lẽ thế những điều tôi tin ( dù ai đó cho là mê tín ) nhưng đối với tôi là một sức mạnh tâm linh, là niềm tin vững chắc nhất hướng dẫn tôi vào hành trình suốt năm ấy .
20/01/2020(Xem: 3781)
Xuân về khắp chốn rộn tin vui Mở cửa mừng Xuân rạng ánh cười Phú quý Xuân sang nguồn cội thắm Vinh hoa Tết đến nghĩa tình tươi Muôn nhà lộc nở tài thêm phát Vạn nẻo chồi đơm đức mãi soi Đón Tết mừng xuân tràn phúc hạnh Tinh anh tiếp nối tuệ tâm ngời...!
20/01/2020(Xem: 4137)
Xuân Di Lặc Tường Vân Kính mừng Xuân Di Lặc Đã về với chúng ta Nét đẹp được ghi khắc Lan tỏa khắp gần xa
19/01/2020(Xem: 5377)
Thông Điệp Xuân Canh Tý 2020 của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ
18/01/2020(Xem: 4474)
Tác bạch cùng Sư Phụ cuối năm Kính dâng Sư Phụ Viên Minh Sư phụ rời Úc Châu... liền mùa hỏa hoạn, Thảm trạng tang thương, lòng dạ rối bời ... Hai tháng ... đỏ lửa vẫn còn lại vài nơi, Sư Phụ ơi, tinh thần đâu chúc Tết !
18/01/2020(Xem: 3819)
Quà, là cái gì đó do người ta tự giác tặng chúng ta, sao giờ lại có vấn đề ĐÒI QUÀ? Rất là trắng trợn, lãng xẹt, và vô duyên gì đâu... Như là đòi nợ! Người ta "hết yêu mới đòi quà", là bà con trong tình thương mến thương cũng đòi quà. Vậy là thương - không thương gì cũng đòi quà. Ai là người đòi quà? - Chính là kẻ ĐÓI QUÀ. Đói mới đòi. Tiếng Việt mình thật tuyệt. Là một du tăng (phượt thủ), việc mang vác quà từ A đến B hay ngược lại, khi chỉ ngao du với một ba lô duy nhất, là chuyện không thể. Trước khi về tới VN, thêm chỉ nửa ký quà trong ba lô thì không nặng, nhưng lão phải dừng chân ngắm cảnh ở bao thành phố, thì nó làm chùn vai làm sao... Tốn kém, mang vác, nói làm chi, đáng buồn là khi trao quà, người nhận thường thờ ơ đáng ngạc nhiên, đắng lòng! Muốn cho họ "không thất vọng" thì... ai mà chịu nỗi! Ở VN giờ có thiếu gì đâu. Cho quà vì sĩ diện cũng khổ, cho quà để thể hiện tình cảm nhớ thương rồi cũng nhục mặt. Phật tử mênh mông, có người chẳng thân gì, cũng phán thẳng
17/01/2020(Xem: 4016)
Em hỏi chị cách sao dâng lời chúc, Làm mọi người phấn khích ... hoà hợp nhanh . “ Chỉ cần em có tâm niệm tốt lành “ Hành xử hằng ngày ... đợi chi đến Tết !!! Tâm trong sáng, chẳng gì lo sơn phết, Ngát hương thơm chính ...nhờ biết tri ân . Nụ cười, đôi tay ...nâng đỡ tinh thần, Hơn vạn lời xã giao cùng chúc tụng!
17/01/2020(Xem: 4908)
Xuân mang ý nghĩa vui vầy sum họp ít nhất theo văn hóa truyền thống Việt Nam. Xuân mang đến sự nghỉ ngơi, tiêu khiển, quân bình thời tiết cho khí hậu ôn hòa, cây lá đơm hoa vươn lên sức sống. Đó là cách nhìn suy nghĩ của đa số con người sống trên hành tinh trái đất này. Tuy nhiên cũng có nhiều người chẳng màng, chẳng để ý mùa xuân, mùa đông… mà chỉ hoạt động theo dòng chảy cuộc đời, theo quan niệm triết sống của riêng mình. Nhưng thế nào, nhất quán ai cũng công nhận mùa xuân là mùa đẹp, vì cảnh vật cây cỏ thêm màu, thêm sắc.
17/01/2020(Xem: 3756)
Xuân Về Kính Chúc Mọi Nhà, tấn tài tấn lộc cửa nhà bình an
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]