Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bếp Chùa (truyện ngắn)

20/12/202414:19(Xem: 494)
Bếp Chùa (truyện ngắn)



cong qua-2024



  TRUYỆN NGẮN 


BẾP CHÙA
Đồng Thanh





Sáng hôm nay Hiền vẫn về Tu Viện như thường lệ, trời mùa đông Melbourne từng làn gió hắc hiu mang theo hơi lạnh rít từng hồi thấm sâu vào da thịt,

trên thềm cỏ vẫn còn giọt nước sương đêm chưa tan dù mặt trời đã tỏa nắng, Gió thổi nhẹ khiến cho nhành liễu trước tượng đài Bồ Tát Quan Âm đu đưa như bàn tay đang vẫy gọi. Xoa mạnh hai lòng bàn tay nóng lên rồi đưa lên má vài lần cho ấm, Hiền bước vào Tu Viện.

- Dạ bạch Thầy!

Vị Sư phụ tháo cặp kiếng dày cộm đưa tay dụi mắt nở nụ cười hiền từ.

- Hiền đấy con? Hôm nay con không đi làm sao?

- Dạ hôm nay hãng con đóng nên con về Tu Viện làm công quả

- Vậy à! Con giúp thầy nhỏ cỏ trong những chậu hoa xung quanh Tượng Đài

- Dạ mô Phật !

Và như thế mỗi khi nghỉ làm hoặc cuối tuần Hiền đều về Tu Viện phụ giúp công quả và nghe thầy giảng. Từng khóm hoa hồng, hoa lan như gởi gắm nỗi niềm người con xa quê khi phải theo chồng qua xứ này. Hiền xuất thân miền Trung, quanh năm lam lủ ruộng nương nên mỗi khi về Tu Viện chăm sóc sân vườn không làm Hiền mệt nhọc.

- Hiền con! Hôm nay có mấy cô, mấy chị về Tu Viện nấu ăn cho khóa tu cuối tuần, con phụ dưới bếp giúp thầy!

- Dạ bạch Thầy!

Hiền nhớ như in ngày đầu tiên vào phụ bếp. Lúc đó có cô Trang khoảng 60,61 tuổi gì đó, Cô gốc Quảng Nam, qua Úc lâu rồi nhưng vẫn nói tiếng Quảng Nam đặt trưng, nhiều lúc cô nói những từ nghe thật ấn tượng đến dễ thương:

- “Không lòm thì thôi đừng lèng nhèng, hay tét giùm cô bếp lửa, con eng đi cô không eng…”

 

Cô là bếp chính trong Tu Viện và cũng là người quản lý khu vực nhà bếp. Mỗi kỳ lễ lớn một tay cô chỉ đạo sắp xếp, chị em chúng tôi gồm chị Mai, chị Lan, chị Cúc, chị Trúc, chị Thắm, chị Duyên…và tôi ai nấy đều răm rắp làm theo.

Tu Viện mỗi tháng tổ chức tu Bát Quan Trai một lần vào ngày chủ nhật và mỗi cuối tuần Phật tử đều về tu học, những lúc đó Hiền đều tham dự đều đặng, vừa làm công quả phụ cô Trang, vừa nghe thầy giảng Pháp. Thường thì nhà bếp rất bận rộn vì phải chuẩn bị cơm cho kịp giờ thọ trai nên không có thời gian lên chánh điện tụng kinh cũng như nghe Pháp, nhưng Hiền vẫn nghe tiếng thầy giảng vì dưới bếp được truyền âm thanh bằng một cái loa nhỏ nên vừa làm việc vừa nghe tụng kinh và từng lời giảng của thầy Hiền và mấy chị nhà bếp vẫn nghe được.

Chiều hôm nay sau giờ hành trì, cô Trang và mấy chị em chúng tôi được thầy kêu lên chánh điện nghe thuyết Pháp, những lời Pháp nhẹ nhàng gần gủi thắm đượm tình thầy trò. Thầy dạy:

 

- Quý Phật tử biết không? Phàm là người con Phật chúng ta đến đâu và làm gì đều phải quán chiếu việc ta đang làm như một phép tu để chuyển đổi tâm tính của mình. Chẳng hạn như buổi ngọ trai hôm nay nhà bếp cho chúng ta món canh rau Tần Ô nấu với nấm tươi, quý vị có cảm nhận gì không ? Vị của nó ngọt, hương rau thơm nhẹ, khi ăn cảm giác ngọt lịm trong cổ. Điều này cho ta hiểu được khi chúng ta cùng làm việc chung trong một Đạo tràng, không chống trái đố kỵ lẫn nhau, cái này tôi biết tôi chỉ Chị chưa biết, món này em nấu ngon hơn em dạy cho Chị. Tất cả đều dung hòa chia sẻ cho nhau, có như vậy thì nấm nào cũng ngọt, rau nào cũng thơm, cho đến khi ta rời khỏi bếp tâm ta mát mẻ nhẹ nhàng, sắc diện ai cũng đỏ hồng như bếp lửa. Như vậy ta đã đạt được không gian lạc trú và hiện Pháp lạc trú trong tinh thần Thiền học, chúng ta có thể giải thoát khi chúng ta bắt đầu bật lửa. Giải thoát nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta phải tháo gỡ toàn bộ tâm cố chấp, buông bỏ hết tham lam, bỏn xẻn. Lửa có công năng thiêu đốt tất cả, vậy ta nên quán chiếu ngọn lửa này sẻ thiêu cháy toàn bộ sự phẫn nộ, sân si để rồi đem đến nhịp sống an hòa trong tình Đạo bạn. Quý vị thấy đó! Nếu biết dùng con mắt tuệ giác quán chiếu thì trong gian bếp chứa đựng cả một thư viện kinh sách với vô vàn lời dạy minh triết từ Đức Phật.

Hiền ngồi yên, mắt luôn nhìn hình ảnh người thầy tôn kính, với vẻ mặt hiền từ dung dị, âm thanh nhỏ nhẹ, lời Pháp đơn giản dễ hiểu rót từng hồi vào tận tâm cang khiến cho Hiền xúc động, không ngờ những công việc tưởng chừng đơn giản trong bếp mà hôm nay thành những bài Pháp vi diệu. Có khi nào ý nghĩa câu: “Vô thượng thậm thâm vi diệu Pháp” cũng chỉ từ đây mà ra? có lẻ là như vậy! Vì Pháp vi diệu là Pháp khi ta thực hành thấy có sự an lạc, nghĩ là nghĩ vậy thôi! Chắc khi nào mạnh dạng hỏi thầy mới được!

 

Chiều hôm ấy trên con đường về nhà từng hàng cây bạch đàn hai bên đường cành lá vẫn sum suê cho dù đang chịu cái rét mùa đông, Hiền vừa lái xe vừa tự chiêm nghiệm những gì mà ngày nay mình học được từ Thầy, hãy nhìn những gì ta thấy và ta đang làm bằng lăng kính người học Phật thì tất cả đều nhẹ nhàng thanh thoát, không vướng bận những hệ lụy bởi tâm cố chấp trói buộc, tất cả đều được tự nhiên theo sự vận hành của vạn sự vạn vật, có như vậy tâm ta luôn nhẹ nhàng an vui, cuộc sống luôn nảy nở những điều tốt đẹp thánh thiện, cho dù nơi quê người có muôn ngàn gian khổ, giống như cây Bạch đàn kia cành lá vẫn tốt tươi dù đông về gió lạnh.

Thời gian trôi qua biết bao nhiêu lần lá thu phong bên đường rơi rụng, bao nhiêu lần xuân đến rồi đi, bao nhiêu lần gian bếp chùa chứng kiến biết bao nhiêu chuyện của những người mới và cũ. Hiền vẫn còn đó trong công việc của mình, bảy năm cho một chặng đường nơi xứ Úc, bảy năm trong công việc nơi bếp chùa, vẫn tinh thần ấy, vẫn lời Pháp ấy vị Trụ Trì khả kính giờ đây nét thời gian in hằn trên khuông mặt. Thầy đã già đi vì phải lo nhiều công việc Phật sự cho Tu Viện và Giáo Hội, dù bận rộn thầy vẫn duy trì tổ chức những khóa tu cho Phật tử. Bao lớp người đến và bao nhiêu người ra đi đều để lại những hoài niệm vui buồn mà bảy năm qua Hiền đã trải nghiệm.

Tu Viện là nơi sinh hoạt tu học chung cho đồng hương Phật tử, nên biết bao nhiêu người đến rồi bao nhiêu người ra đi, cứ mỗi lần như thế là gian bếp chùa có thêm một món mới, một câu chuyện mới và Hiền cũng có thêm một bài Pháp mới từ Thầy. Thầy hay dạy chị em chúng tôi:

 

- Tu nơi Bếp khó hơn tu trên Chánh điện và đương nhiên phước đức giống nhau, nhiều khi trội hơn vì những việc làm âm thầm ít ai để ý, ít người vỗ tay, ít người tặng thưởng nhưng kết quả thực nghiệm lại gặt hái nhiều Pháp vị nếu mình biết quán chiếu và áp dụng lời Phật dạy trong công việc mà mình đang làm.

Có nhiều câu chuyện mà Hiền đã học được từ nơi bếp chùa.

 

Câu chuyện chị Tuyền về công quả phụ giúp công việc nấu ăn cho khóa tu học. Chị là người đã từng làm nhà hàng lúc còn ở Việt Nam, giờ qua đây theo diện đoàn tụ vợ chồng. Nhớ hôm mới về chị cùng chị em chúng tôi phụ cô Trang nấu ăn cho đại chúng, được vài tháng chị tỏ ra mình là người hiểu biết về ẩm thực nên làm theo ý mình, chẳng những không làm theo sự sắp xếp của cô Trang mà tự ý thích làm gì thì làm, thích nấu gì thì nấu khiến cho gian bếp rối loạn và bề bộn thêm, điều đó làm cho cô Trang không được vui, bỏ bếp ra xe ngồi. Câu chuyện đã vào tai thầy trụ trì. Thầy cho mời cô Trang vô và thầy xuống tận bếp kêu hết mọi người ngồi quây quần lại, thầy dạy :

 

- Thầy xin hỏi: Chị nấu món gì mà khiến cô Trang không vui?

- Dạ thưa thầy con chỉ làm món gỏi trộn bánh “phồng tôm” chị Tuyền nói và đưa tay chỉ đĩa gỏi trên bàn.

Thầy lại hỏi cô Trang:

- Thế sao cô lại không vui khi chị Tuyền làm món ấy?

- Dạ bạch Thầy! Khi Tuyền đề nghị làm món gỏi, con đồng ý nhưng có nói với Tuyền là về phần cải sú phải bào nhỏ sợi vì làm như vậy ngon hơn, và dễ ăn cho mấy cụ lớn tuổi, vã lại khi trộn đừng rắc đậu phụng lên vì sợ nhiều người dị ứng, có thể để riêng, ai muốn thì rắc lên, tránh trường hợp dị ứng đậu phụng khó thở như có lần Tu Viện đã từng bị phải đi bệnh viện, Tuyền không nghe con góp ý và nói “làm như vậy không ngon”.

Khi nghe Truyền và cô Trang trình bày thầy Trụ trì mĩm cười cầm đĩa gỏi lên gắp một miếng đưa vào miệng nhai đều, đầu gật mấy cái như tâm đắc điều gì đó. Đặt đĩa gỏi xuống bàn thầy quay sang nói với chị Tuyền:

 

- Chị làm món này bắp sú giòn rất ngon, tuy nhiên bỏ giấm hơi nhiều dẫn đến hơi chua, vì trong đây đã có xoài rồi, vã lại rau răm phải ít lại vì đặt tính rau răm nóng không tốt cho sức khỏe, đậu phụng giã lớn quá ăn vô lộm cộm trong miệng…Cũng vậy! Trong gian bếp này cô Trang là người lớn tuổi nhất và làm việc lâu năm nhất, các chị đến sau phải biết lắng nghe, sự lắng nghe này phải mở mắt lắng nghe, nghĩa là nghe những điều có lý, phải tôn trọng sự cống hiến lâu năm. Cô ấy có Phước đức sâu dày hơn mình vì quá trình làm việc nhiều năm, mình nương cô ấy để tập tu những điều khó tu nhất trong gian bếp này, cho dù có những cái mình biết nhiều hơn cô ấy.

 

Thầy quay sang cô Trang:

 

- Cô có nhớ! Có lần thầy nói với cô thế nào giữ tâm mình như giữ lửa không?Trong lúc nấu ăn, lửa phải điểu chỉnh thích hợp độ nóng vừa phải, điều chỉnh thích hợp thì món ăn không bị vấn đề. Điều đó nói lên điều gì? Tuy cô là người làm công quả lâu năm nhưng cũng phải hài hòa kết hợp, những ý kiến từ các em mới đến, nếu thấy hay thì cô cũng phải uyển chuyển tùy thuận, sự tùy thuận này cho thấy mình không phải độc tôn bá chủ ở đây mà luôn luôn lắng nghe học hỏi cái mới, biết cảm nhận và tiết chế khi tâm ta tiếp xúc những điều mà ta luôn nghĩ nó chuẩn mực với mình. Thầy không phủ nhận sự góp ý của cô đối với món gỏi của chị Tuyền, nhưng ở đây thầy nói chung là cô phải nhẹ nhàng và vui vẻ khi ai đó không vừa ý với mình để rồi tâm ta không giao động, rồi sinh ra trạng thái hờn giận không đâu, dễ dẫn đến mất hòa khí trong công việc. Ví như ngọn lửa trong lò đang cao, cô nhẹ nhàng hạ xuống và kiểm soát nó thì thức ăn không cháy, nước súp không bị tràn ra khỏi nồi và đồng thời lửa nếu vặn cao sẽ tạo ra lửa đỏ khiến xoong nồi bị “khói đen”. Thầy nghĩ trong chuyện này cả cô và chị Tuyền, một bên lắng nghe, một bên hài hòa kết hợp, không  bất mãn giận hờn thì cả hai đều vui vẻ, giống như món gỏi phải trộn đều các thứ thì mới ngon và hoàn mỹ.

 

Thầy đứng lên và khuất dần cuối dãy hành lang nhưng dư âm lời nói ấy vẫn còn chấn động trong tâm tư mỗi người chúng tôi. Cô Trang, chị Tuyền ôm nhau thân thiết thể hiện sự thông suốt trong bài Pháp vừa rồi của thầy. Riêng Hiền thì ánh mắt cứ nhìn hoài ngoài sân, nơi ấy hình ảnh tượng đài Bồ Tát Quan Âm đang sừng sững giữa mây trời gió lộng. Thầy như người mẹ hiền luôn vỗ về mỗi khi con mình có chuyện. Khi gian bếp này “rực nóng” thầy liền đến với lời lẽ nhẹ nhàng thâm thúy như lời kinh Phật, xoa dịu khiến cho ngọn lửa đang hực cháy kia liền tắt lịm. Ôi! Còn gì hạnh phúc hơn khi được gần gũi bên thầy, được nghe những lời ân cần dạy bảo thắm đệm tình cảm thiêng liêng như mẹ hiền ru con ngủ. Hiền rời Tu Viện mà trong lòng còn mãi vấn vương.

 

Hôm nay trời xứ Úc đang vào mùa thu, lá vàng trên đường về Tu Viện rụng đầy hai bên đường, ngọn gió từ hướng Tây thổi về làm xe lạnh, Hiền khoát chiếc khăng choàng cổ liền vội vã bước vào Tu Viện. Mọi người đã về đông đủ nhưng sao ai nấy đều lặng thinh, trên mặt vị nào cũng hiện nét buồn thương.

Nhẹ nhàng để vội chiếc giỏ đựng áo khoát trên bàn, Hiền ngồi xuống chưa kịp hỏi câu nào thì bỗng dưng chị Duyên òa lên khóc, sau đó mọi người ai cũng khóc. Hiền bàng hoàng chưa biết chuyện gì, nhưng có linh cảm có chuyện bất hạnh gì đang xảy ra. Hiền liền hỏi :

- Chuyện gì? Sao mọi người ai cũng khóc?

- Khi nảy điện, biết em đang lái xe chị không nói sợ em xúc động ảnh hưởng an toàn, Cô Trang mất rồi em ơi! Chị Thắm nói trong tiếng khóc.

Hiền sững sờ khóc nghẹn khi nghe tin.

- Sao mà đột ngột vậy? Cô bệnh gì mà mất vậy chị?

- Cô bị gan nhưng dấu chị em tụi mình, những ngày cuối đời cô chỉ nói cho mình Thầy biết thôi!

- Hèn gì mấy tuần gần đây không thấy Cô về Tu Viện.

- Ngày bệnh Cô trở nặng, Cô bảo anh Thắng con Cô báo cho Thầy hay, thầy vào bệnh viện thăm Cô, Cô lạc quan không nói gì về bệnh tình của mình mà cứ hỏi Thầy công việc Tu Viện, mấy chị em dưới bếp có khỏe không và có về thường xuyên không? Rồi chuyện nấu nướng, đi chợ, nhờ người chở đồ…

Tang lễ của Cô được Thầy tổ chức trang nghiêm tại nhà Quàn, Phật tử trong Đạo Tràng đến hộ niệm rất đông. Trên màn hình chiếu lại những hình ảnh kỷ niệm của Cô và gia đình cũng như những hình ảnh Cô làm công quả tại Tu viện. Thầy trụ trì trước khi làm lễ đã nói vài lời tán thán công hạnh.

 

- Chỉ còn giây phút ngắn ngủi nữa thôi thân giả tạm của Cô sẽ trở về cát bụi, thầy và toàn thể quý Phật tử trong đạo tràng xin chia buồn đến toàn thể con cháu trong gia đình, mong quý vị đè nén đau thương của sự mất mác này mà nhất tâm hướng về Tây Phương Cực Lạc, nguyện cầu đức Phật Di Đà tiếp dẫn hương linh Cô vãng sanh về thế giới của Ngài.

- Đời cô 75 năm hiện diện nơi cõi đời này, đối với gia đình Cô đã làm tròn trách nhiệm của một người vợ, người mẹ, người bà. Đối với Đạo Cô là một Phật tử mẫu mực ai cũng thương mến. Mười lăm năm Cô đã tận tụy trong công việc tại gian bếp chùa. Một sự cống hiến âm thầm ít ai biết nhưng việc làm đó đã đem lại niềm hỷ lạc cho đại chúng mỗi khi về Tu Viện tu học. Mười lăm năm trôi qua thầy trò biết bao nhiêu kỷ niệm trong công tác Phật sự, thầy không bao giờ quên hình ảnh của Cô với hai ba lớp áo khi đông về giá lạnh nhưng trên khuôn mặt lúc nào cũng hoan hỷ cho dù việc nấu ăn cho nhiều người rất cực khổ, từng cái xoong cái nồi, hay cái thau cái rổ, đâu đó đã được Cô sắp xếp gọn gắng.

 

- Giờ đây! Và mãi mãi gian bếp chùa sẽ vắng bóng Cô! Thầy và tất cả quý Phật tử trong Đạo Tràng xin tán thán công đức của Cô suốt 15 năm qua đã cống hiến cho công việc phát triển Đạo Tràng. Cô ra đi nhưng những gì Cô để lại sẽ mãi mãi là hình ảnh đẹp. Nói đến đây thầy yên lặng một hồi…! Mọi người đều lặng yên như để tưởng niệm về Cô. Cả không gian chìm trong tịch tĩnh, chỉ có tiếng xào xạc của nhành cây bạch đàn bên hiên nhà Quàn tạo ra nốt nhạc u buồn tiễn đưa.

 

Đại chúng cùng gia đình vân tập đông đủ tại Linh Đường Tu Viện, những lời kinh tiến bạt hương linh của Thầy vang lên, ai nấy đều trang nghiêm chắp tay cầu nguyện, mong cô đuợc vãng sanh về Tịnh Độ.

Giờ đây gian Bếp chùa đâu đó gọn gàng ngăn nắp, vì ai nấy đều nhớ và làm theo Cô, đồng thời thấm nhuần lời thầy dạy: “Làm với tâm phụng sự, không hơn thua, không ích kỷ, không đố kỵ, không tranh giành…”

Hiền vẫn về Tu Viện với công việc âm thầm nơi gian bếp, để lắng nghe và thực hành lời Pháp thầy giảng mỗi lúc gian bếp rộn ràng khi có kẻ đến người đi.

 

Lá vẫn rơi bên hè Tu Viện, gió vẫn thổi bên hông gian Bếp Chùa. Hiền ngồi đó sắt từng bắp cải, gọt từng trái su nghe lòng mình ngân vang theo từng cung bậc, cung bậc của thời gian hay cung bậc của sự thăng trầm sinh diệt. Xa xa cuối dãy hành lang có tiếng bước chân của vị Trụ Trì tôn kính đang khoan thai tiến về gian Bếp.

-Ta phải học gì từ khi lửa bắt đầu nóng lên?

Đây là câu nói trở thành “châm ngôn” nơi Bếp Chùa, lời Thầy nhỏ nhẹ nhưng âm vang ngân dài…

Ngoài hiên ánh tà dương khuất dần sau hàng cây xanh, đâu đó có tiếng chim lạc loài sau một ngày mệt nhoài vì sự sống. Tiếng Hồng Chung vang lên trên chánh điện, gian Bếp Chùa như ngủ im để chuẩn bị cho ngày mai ấm lên trong ý nghĩa phụng sự.

 

Hiền ra về khi đã kết thúc một thời Kinh, trong lòng tràn đầy hỷ lạc vì đã học được nhiều điều, tự nhiên Hiền cảm thấy ấm lên dù ngoài kia trời mùa đông gió lạnh.

 

 

Hè Melbourne 12/2024

Đồng Thanh

 🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Mời xem bài cùng tác giả

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2022(Xem: 8675)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7475)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6367)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7297)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5443)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4091)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8983)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23605)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4798)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
30/11/2021(Xem: 33419)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]