Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một con tàu cho Việt Nam: Cap Anamur

02/05/202417:54(Xem: 3033)
Một con tàu cho Việt Nam: Cap Anamur


Cap Anamur (3)

Một con tàu cho Việt Nam:

Cap Anamur

Bài của Hoa Lan Thiện Giới



Biến cố 30 tháng 4 năm 75 không những làm đảo lộn cuộc sống của người dân miền Nam, làm xóa tan một chính thể Cộng Hòa nhân bản mà từ Đệ Nhất tới Đệ Nhị Cộng Hòa đều mang đến tự do, hạnh phúc cho người dân. Không như sáo ngữ "Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa - Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc", nghe như một liều thuốc tê làm mất hết cảm giác và trở thành con người vô cảm lúc nào không hay! 

 

Các tay phản chiến lừng danh trên thế giới như bên Mỹ có cô đào điện ảnh Jane Fonda, bên Pháp có triết gia hiện sinh như Jean Paul Sartre và biết bao nhiêu phản chiến khác đã xuống đường biểu tình chống Mỹ thả bom xuống Hà Nội vào những năm đầu 70. Họ đã thành công khi tạo nên dư luận ép Quốc hội Mỹ phải ngừng viện trợ cho Miền Nam và rút quân về. Đồng nghĩa là Mỹ đã trắng trợn bỏ rơi Đồng minh là Việt Nam Cộng Hòa, cho Đồng chí Việt cộng vào giải phóng Miền Nam. Kết quả hoàn toàn đông lạnh, chỉ vài năm sau cả nước trước từ Nam sau ra tới Bắc, đều bỏ nước leo lên tàu chạy bán mạng ra nước ngoài. 

 

Tình hình nước Đức lúc bấy giờ vẫn chia đôi, Tây Đức theo tư bản nên sống trong tự do và thịnh vượng, Đông Đức theo chủ nghĩa xã hội nên vẫn xếp hàng dài dài mua nhu yếu phẩm. Bắt đầu vào những năm 1978, trên những Đài Truyền hình cơ bản của Tây Đức tức Cộng Hòa Liên Bang Đức như ARD và ZDF, chiếu liên tục các cảnh tượng thê thảm của những chiếc tàu ọp ẹp sắp chìm ngoài Biển Đông, trên chứa biết bao con người từ đàn bà, trẻ em, già trẻ lớn bé đủ cỡ, đang giơ cao các tấm bảng SOS hay cờ trắng một cách tuyệt vọng. Họ chờ đợi một chiếc tàu nào đó đến cứu, đưa họ đến một bến bờ bình yên. Cụ thể hơn là vào mùa Thu năm 1978, tin tức từ chiếc Tàu Hải Hồng, rồi Tùy An và Huy Phong gồm 10 ngàn người đang lênh đênh ngoài Biển Đông, mà không một nước nào nhận cho vào. 

Những tin tức và hình ảnh khốn khổ về các thuyền nhân Việt Nam trên biển, đã làm dư luận người dân Tây Đức lúc ấy thương cảm, họ muốn chính phủ ra tay cứu vớt. Nhưng các Đảng phái lớn như CDU và SPD còn mãi cãi nhau chưa thống nhất, "ja oder nein" hay "yes or no" còn phải biểu quyết qua Quốc hội Liên bang.

Nhưng vào ngày thứ sáu 24 tháng 11 năm 1978, ông Thủ hiến bang Niedersachsen Dr. Ernst Albrecht (1976 - 1990) đã tự quyết định trong quyền hành của bang mình, thu nhận 1.000 thuyền nhân trên chiếc tàu Hải Hồng, đang chơi vơi trên biển cả, họ là những thuyền nhân đầu tiên được đón nhận vào xứ Tây Đức. Hành động này của ông "Bồ Tát" Albrecht, đã thức tỉnh các đảng phái khác trong chính quyền, họ ra luật cho phép đón nhận người tỵ nạn vào các liên bang trên toàn nước, không chỉ ngoại lệ bang Niedersachsen của Dr. Albrecht. 

Niedersachsen Dr. Ernst Albrecht

ông Thủ hiến bang Niedersachsen Dr. Ernst Albrecht (1976 - 1990)


Dr Rupert Neudeck-2
Con Tàu Cap Anamur II


Dr Rupert Neudeck
Tiến sĩ Rupert Neudeck giúp vui an ủi người tỵ nạn VN qua tiếng đàn guitar của ông







Cùng thời điểm ấy, các tay phản chiến thứ dữ bên nước láng giềng Pháp cũng thức tỉnh, nhà văn Jean Paul Sartre đã hối lỗi bằng cách, cùng người bạn triết gia Raymond Aron thành lập một chiến dịch cứu người trên Biển Đông lấy tên "Un bateau pour le Vietnam", một con tàu cho Việt Nam vào tháng 5 năm 1979. Chuyến tàu đầu tiên có tên “Ile de Lumière”, Đảo ánh sáng và chuyến thứ hai lấy tên “Baie de Lumière”, Vịnh ánh sáng, nhưng gặp khó khăn khi nhận người tỵ nạn vào nước Pháp, chính phủ Pháp chỉ cấp giấy phép đặc biệt một lần vào tháng 10 năm 1979 cho chiếc tàu “Ile de Lumière” với 884 thuyền nhân.

 

Cũng vào thời điểm ấy, một ký giả người Đức của đài WDR (West Deutsch Rundfunk), Tiến sĩ Rupert Neudeck, đã thành lập một tổ chức lấy tên "Ein Schiff für Vietnam", một chiếc tàu cho Việt Nam. Tổ chức này được sự ủng hộ của Đại văn hào Heinrich Böll với giải Nobel văn học năm 1972 và Matthias Walden, cả hai đều là những người thuộc phe đối lập. Tiến sĩ Neudeck đã đặt tên cho con tàu cứu vớt thuyền nhân Việt Nam là Cap Anamur, lấy tên một thành phố biển ở Thổ Nhĩ Kỳ. Và một tổ chức Y tế có tên "Komitee Not-Ärzte Cap Anamur", quy tụ nhiều bác sĩ chuyên khoa để chữa trị gấp cho các thuyền nhân Việt Nam, tất cả đều là thiện nguyện.

Kết quả của những năm tháng dài miệt mài cứu người trên biển, tiến sĩ Neudeck đã cứu được 11.300 người Việt Nam lênh đênh trên biển cả và vớt được 226 chiếc tàu vượt biên, đồng nghĩa với 226 lần nhận chìm tàu ghe, vì theo luật hàng hải chỉ vớt người lên tàu khi gặp nguy khốn và không để mảnh vụn cản trở lưu thông trên biển.

 

Một câu nói bất hủ trong phim "Schindlers Liste" của đạo diễn lừng danh Steven Spielberg: "Ai cứu được một mạng sống là cứu cả thế giới". Trong khi đó tiến sĩ Neudeck đã cứu được mười một ngàn ba trăm người trước cái chết tàn bạo dưới Biển Đông. Ôi, những tấm lòng "Bồ Tát" này, các thuyền nhân được cứu vớt phải mãi mãi ghi ơn!

 

Một bà cụ có cậu con trai cả đi vượt biên được tàu Cap Anamur vớt, đưa vào bến bờ bình yên rồi lại được bảo lãnh cho bố mẹ và các em sang định cư tại Đức, đã dạy dỗ con trai mình như sau:

 

-   Bố mẹ sinh ra con hình hài này, nhưng ông Neudeck đã tái sinh cho con lần thứ hai. Sau này ông mất phải cúng giỗ cho tử tế nghe không! 


Cái tên "Boat People" tức "Thuyền nhân" được thế giới biết đến qua cuộc họp của Cao ủy Liên hiệp quốc ở Geneve - Thụy Sĩ vào ngày 20 và 21 tháng 7 năm 1979. Sau này lại xuất hiện hai từ "Tường nhân" chỉ nhóm người tỵ nạn trèo tường, trèo qua "Bức Tường ô nhục" chia cắt Tây và Đông Bá Linh vào những năm 1989. Để vào ngày mùng 3 tháng 10 năm 1989, xứ Đức ăn mừng Quốc khánh thống nhất đất nước. Họ cũng chia đôi đất nước như Việt Nam, nhưng ngày giải phóng của họ hoàn toàn trái ngược, bên thắng cuộc rất nhân bản, họ bỏ tiền ra xây dựng lại đất nước cho kinh tế hai bên được cân bằng. Còn phần Việt Nam mới chán chê mê mỏi như câu hát trong bài Chiều Tây Đô của nhạc sĩ Lam Phương: "Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?".



Cap Anamur (1)
Tượng Đài Tiến sĩ Neudeck ở Troisdorf - 2007.

 

 

Cap Anamur (2)

Đài Kỷ Niệm ở Hamburg - 2009.

 

 

Cap Anamur (3)

Dr. R. Neudeck  - 12.09.2009 Hamburg.

Dr. E. Albrecht  - 12.09.2009 Hamburg.

 


Cap Anamur (5)

Dr. P. Rösler - 12.09.2009 Hamburg.

 

 

Cap Anamur (4)

Hội Ngộ và Tri Ân  -  03.09.2011 Berlin.


 

 

Tiến sĩ Neudeck được các Hội đoàn tỵ nạn tại xứ Đức xây một tượng đài với chân dung của ông bằng đồng đen vào ngày 28 tháng 4 năm 2007, dựng tại quê hương của ông ở Troisdorf.

Trên cảng Hamburg, cộng đồng tỵ nạn tại Hamburg cũng đặt một Đài Kỷ Niệm bằng đồng đen hình cuốn sách để tưởng nhớ công ơn ông Neudeck vào ngày 12 tháng 9 năm 2009, có sự hiện diện của rất nhiều nhân vật tiếng tăm trong chính phủ đương thời.

Tại thủ đô Berlin vào ngày mùng 3 tháng 9 năm 2011, một số thuyền nhân đã được ông Neudeck cứu vớt, đã tổ chức một buổi Hội Ngộ và Tri Ân nước Đức tại Hội trường Audimax của Đại học Kỹ thuật Berlin thật rầm rộ, thu hút được các Chính trị gia nổi tiếng của thủ đô đến tham dự.

Ông ân nhân của 11.300 thuyền nhân được cứu vớt, cộng thêm cha mẹ, vợ chồng con cái, anh em của họ được bảo lãnh sang, không biết lên đến con số nào? Nhóm người này đã tiếc thương khi nghe tin Ông đã ra đi về nước Chúa vào ngày 31 tháng 5 năm 2016.

 

Tất cả đều là vô thường trong cõi tạm, Ông đến làm công tác cứu người xong việc rồi Ông lại đi. Có điều là hình ảnh của Ông cứ mãi mãi nằm trong tâm khảm của những người đã chịu ơn Ông. 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2016(Xem: 4758)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4349)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37326)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5426)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8849)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4555)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 14139)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21202)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6796)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
16/05/2016(Xem: 12286)
Phim Phật Giáo: Quan Âm Bán Cá
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]