Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19_Bạch X. Phẻ: Giấc Mơ Trường Sơn của Tuệ Sỹ – Món quà văn học đặc sắc của Việt Nam dành cho phương Tây

08/10/202309:14(Xem: 6480)
19_Bạch X. Phẻ: Giấc Mơ Trường Sơn của Tuệ Sỹ – Món quà văn học đặc sắc của Việt Nam dành cho phương Tây




giac mo truong son-1

 Giấc Mơ Trường Sơn của Tuệ Sỹ

Món quà văn học đặc sắc

của Việt Nam dành cho phương Tây

Bài viết của Tiến Sĩ Giáo Dục Bạch Xuân Phẻ

Do PT Diệu Danh diễn đọc








Chúng tôi thật vinh hạnh và danh dự khi được Giáo sư Nguyễn Bá Chung yêu cầu điểm sách đặc biệt này của một trong những bậc Thầy được tôn kính và ngưỡng mộ nhất ở Việt Nam. Cuốn sách có tên DREAMING THE MOUNTAIN – GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN của Tuệ Sỹ, người mà tôi có nhân duyên lớn được gặp gỡ, học hỏi, nghiên cứu và hân hạnh được đồng hành một số việc với Thầy. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, còn được gọi là Tuệ Sỹ, là một nhà thơ nổi tiếng, một giáo sư lỗi lạc, một nhà sư ẩn dật, một học giả đáng kính, một người “bất đồng chính kiến”, và là một trong những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong nền văn học và văn hóa Việt Nam hiện đại. Thơ của Thầy được tuyển chọn và biên soạn thật chi tiết trong cuốn GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN. Nhà thơ nổi tiếng người Mỹ Martha Collins và giáo sư Nguyễn Bá Chung đã dịch nó. Seedbank sẽ xuất bản ấn bản song ngữ thơ Tuệ Sỹ lần đầu tiên tại Bắc Mỹ và tập thơ sẽ phát hành vào tháng 6 năm 2023. Tôi hoan nghênh và cảm ơn những nỗ lực của GS. Nguyễn Bá Chung, nhà thơ Martha Collins và nhà xuất bản Milkweed trong việc biên soạn và ấn bản sâu rộng, quan trọng này. Đây là tập sách vô giá cho nhiều thế hệ muốn biết về văn học Việt Nam. Trong phần giới thiệu của cuốn sách, tiểu sử tóm tắt của Thầy được đề cập theo các cách sau:

“Tuệ Sỹ, sinh năm 1943, vào thiền môn lúc mười tuổi và sau này trở thành một học giả Phật giáo lỗi lạc, một giáo sư, một thi sĩ, một dịch giả. Giáo sư Phạm Công Thiện đã gọi Thầy là ‘một thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất tại Việt Nam hiện nay.’ Ông đã kiên quyết chống lại ý kiến cho rằng Phật giáo có thể dùng làm công cụ cho bất kỳ ý thức hệ nào, và ông nổi tiếng ở Hoa Kỳ và những nơi khác về sự bất đồng chính kiến của mình, cũng như ở Việt Nam, nơi ông đang sống. Hai lần vào tù, một lần hai năm, lần nữa mười bốn năm, có lúc bị kết án tử hình. Nếu coi đây là một tiểu sử khác thường, thì thơ Tuệ Sỹ, phần nhiều viết trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá, cũng không kém phần khác thường.”

Cuốn sách được chia thành nhiều phần khác nhau dựa trên một khoảng thời gian, và tôi xin giới thiệu hai bài thơ yêu thích của tôi từ mỗi phần.

1. Cánh Đồng Mộng Xa: Trước 1975
Khung Trời Cũ – Một Mảnh Trời Xưa (tr. 2, 3)
Hận Thu Cao – Noble Autumn Rancor (tr. 14, 15)

2. Mộng Trường Sơn: 1975–1977
Một Bóng Trăng Gầy – A Slender Moon (pg. 24, 25)
Tống Biệt Hành – Nghỉ Phép (tr. 50, 51)

3. Mộng Trường Sơn: 1978–1984
Tôi Vẫn Chờ – I Still Wait (trang 54, 55)
Nằm Giữa Bãi Tha Ma – Ngồi Trong Nghĩa Địa (tr. 62, 63)

4. Những Bài Thơ Sau
Tịnh Thất – Thiền Phòng (tr. 90, 91)
Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm – Refrains For Piano (pg. 110, 111)


Khi những bài thơ hay của Tuệ Sỹ được đọc trong bối cảnh cuộc sống của Thầy, chúng thật ngoạn mục. Thơ của Thầy soi sáng cuộc sống của Thầy ở Việt Nam, bao gồm cả những đấu tranh, ước mơ và hy vọng của Thầy với quê hương Việt Nam. Thầy sở hữu sự hiểu biết vô song về Phật Pháp, trí tuệ và lòng từ bi. Cuốn sách này thừa nhận tầm quan trọng của Tuệ Sỹ trong văn hóa Việt Nam bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của tuyển tập này được dịch qua tiếng Anh lần đầu tiên để giới thiệu độc giả Phương Tây. Tuyển tập được Rachel Adams mô tả trên Tricycle Review “là giàu sức hút, trữ tình và phức tạp một cách lặng lẽ” mang đến một cái nhìn thoáng qua về tâm hồn và về “tác phẩm của một người đàn ông phi thường” cho các độc giả Anh ngữ.

Cuốn sách này cung ứng sự giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của học giả, nhà thơ, dịch giả Phật giáo Việt Nam Tuệ Sỹ qua phương tiện thi ca. Cuộc đời từ lúc xuất gia và nghiên cứu, giảng dạy về Phật giáo của Thầy đều có ảnh hưởng đáng kể đến thơ ca của Thầy, thường phản ánh thế giới tự nhiên, truyền cảm hứng cho hy vọng và có ý nghĩa Thiền sâu sắc. Chiến tranh Việt Nam, thời gian Tuệ Sỹ ở trong tù và các trung tâm cải tạo, cuối cùng được trả tự do và những năm sau này của Tuệ Sỹ đều được mô tả một cách chi tiết. Những bài thơ được thảo luận trong bài luận cho thấy Tuệ Sỹ có lòng trắc ẩn, từ bi, sự kiên trì và cống hiến cho các hoạt động tinh thần và nghệ thuật. Tuyển tập này cho thấy tầm quan trọng của thơ Tuệ Sỹ trong việc phản ánh lịch sử Việt Nam và ý nghĩa truyền thống tâm linh trong thời kỳ giao thời.


Trong thơ Tuệ Sỹ, từ các yếu tố thiên nhiên như gió, nắng, rêu, mây, thác nước… đến mắt biếc, vẻ đẹp, quán trọ, chùa chiền, trần gian… đều đóng vai trò tượng trưng, nhân cách hoá, là ý nghĩa sâu xa xuyên suốt các bài thơ. Các danh lam thắng cảnh cụ thể mà tác giả đã viết được làm nổi bật, đặc biệt là ở Vạn Giã, Nha Trang, Việt Nam, cũng như dãy Trường Sơn như một biểu tượng. Trong tác phẩm của mình, Tuệ Sỹ khám phá chủ đề giấc mơ, bao gồm các khái niệm tưởng tượng, khát vọng, tuyệt vọng, ảo ảnh, cũng như suy tư của Thầy về vòng sinh tử luân hồi và khát vọng giải thoát. Khả năng điều hướng giữa thực tại vật chất và thời gian, giữa có và không, giữa còn và mất, giữa khổ đau và hạnh phúc, giữa phiền não và bồ-đề của nhà thơ được ca ngợi. Cuốn sách cũng bàn về sự khảo nghiệm của Tuệ Sỹ về khổ đau, tình người và con đường thoát tục niết bàn.

Có lẽ “Giấc Mơ Trường Sơn” là một bức chân dung cảm động về một tâm hồn đang tìm kiếm tự do và trí tuệ rộng lớn trong một thế giới hỗn loạn. Nó làm nổi bật chất thơ của Tuệ Sỹ về những quan sát sâu sắc, sự cống hiến cho sự giải thoát và sự tương tác giữa thực tại tối hậu và trần tục. Tuyển tập đã được mô tả là gợi cảm, trữ tình và phức tạp một cách lặng lẽ, mang đến một cái nhìn thoáng qua về tâm trí, trái tim và ý tưởng phi thường của nhà thơ. Nhìn chung, tôi hoan nghênh và giới thiệu “Giấc Mơ Trường Sơn” vì sự thể hiện một tâm trí lớn, một tấm lòng rộng, đang tìm kiếm sự an nhiên và tự do trong một thế giới hỗn loạn và không ngừng thay đổi.

Cuối cùng, tôi xin chúc mừng các dịch giả và nhà xuất bản. Bây giờ mời các bạn thưởng thức tập thơ này. Hãy để những từ ngữ thấm sâu vào tâm thức và trái tim tinh tế của bạn. Hãy đọc chậm rãi. Hãy nhẹ nhàng và vui thú với nó. Chỉ cần tận hưởng là đủ. Cầu mong tất cả chúng ta được bình an, khỏe mạnh và hạnh phúc.

Bạch Xuân Phẻ

PD: Tâm Thường Định


Tác giả của hai cuốn sách:

AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life: A Vision of Poems for West and East
Mindful Leadership: Learning Through the Practices of Mindfulness and Compassion
Tâm Thường Định lượt dịch từ bài viết bằng tiếng Anh. DREAMING THE MOUNTAIN of Tuệ Sỹ – A Special Literature Gift from Vietnam to the West.

Chú ý: Xem thông tin ở trang Amazon.com và mua sách tại đây.
https://www.amazon.com/Dreaming-Mountain-Poems-Tu%E1%BB%87-Seedbank/dp/1639550186/ref=sr_1_1

The North American debut of Tuệ Sỹ—poet, monk, scholar, dissident, and one of the great cultural figures of modern Vietnam—and a new bilingual edition to the Seedbank series.

In addition to being a preeminent scholar of world philosophy and a Zen master, TuệSỹ is one of Vietnam’s most celebrated poets. He is a survivor of sixteen years of imprisonment and an eloquent witness to the tumult, tragedy, and resilience of his country over the last sixty years—and a full-length translation of his work into English is long overdue.

Assembled and co-translated by Vietnamese poet and essayist Nguyen Ba Chung and acclaimed American poet Martha Collins, Dreaming the Mountain reflects a lifetime of creation, crisis, and commitment. With poems presented on facing pages in Vietnamese and English, this volume includes the early imagism of Tuệ Sỹ’s Zen studies as a scholar and critic, midlife work that represents his attempted retreat from the devastation of war and subsequent years of imprisonment, and late, elliptical poems that give intensely lyrical expression to a lifetime of profound experience. From the “fleeting dream of red blood at dusk” to the quiet determination of one who sets out to “repaint the dawn,” these poems reflect the journey of an artist who speaks for his country, who captures its darkness and its light.

At once personal and universal, coolly observant and deeply compassionate, the poems of Tuệ Sỹ bring singular attention to a fleeting, painfully beautiful world.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4825)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43963)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4520)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4434)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4368)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6480)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4775)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4184)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25715)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24523)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]