Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ký Ức Về Ba Tôi - Ông Tổ Bánh Mì Quảng Ngãi

15/01/202305:17(Xem: 4057)
Ký Ức Về Ba Tôi - Ông Tổ Bánh Mì Quảng Ngãi

tran thi nhat hung (1) 

Ký Ức Về Ba Tôi - Ông Tổ Bánh Mì Quảng Ngãi
 Trần Thị Nhật Hưng
Một nén hương lòng thành kính dâng ba với niềm tri ân vô bờ bến của chúng con.
(Bài viết đoạt giải sơ kết trong cuộc thi “Muôn Nẻo Đường Đời„ do báo Sài Gòn Nhỏ tại Hoa Kỳ tổ chức năm 2022)

 

 

Nạn đói năm Ất Dậu 1945 làm chết hơn 2 triệu dân miền Bắc, nặng nhất là hai tỉnh Thái Bình, Nam Định đã để lại dấu ấn không bao giờ quên về hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương do Pháp và Nhật chiếm đóng Việt Nam.

 

        

tran thi nhat hung (2)

      

Bờ đê và ao làng trước nhà tại Vụ Bản, Nam Định 2019

 

Trước cảnh người chết như rạ, người dân huyện Vụ Bản, Nam Định lo sợ, không biết khi nào mới đến lượt mình, may thay năm đó, được mùa trái oma (trái trứng gà) họ đã cầm cự ít nhiều cho qua nạn đói. Nhưng cái nghèo dai dẳng của làng quê trong thời chiến tranh không buông tha người dân vô tội, ba tôi nhìn thấy viễn ảnh tương lai mờ mịt, bùi ngùi bàn với mẹ:

- Mình à, quê mình như thế này, bám trụ mãi rồi có ngày chết đói cả chùm. Tôi muốn vô Nam lập nghiệp. Một mình tôi xoay sở, đâu vào đấy rồi tôi đón mình và con vào sau...

 Mẹ tôi rươm rướm nước mắt, nói trong dòng lệ tuôn trào:

- Vậy mình cứ đi đi, an tâm có em ở nhà lo cho con, cầm cự đợi mình. Mình đừng quên em và con.

Nói xong, mẹ tìm đưa ba tôi địa chỉ người chú của mẹ tại Đà Nẵng, vốn có một xưởng bánh kẹo, hy vọng có thể nương nhờ và học nghề để đổi đời. Ba dứt áo bỏ thôn làng ra đi, nơi bao đời chôn nhau cắt rốn, để mẹ và đứa con trai mới chập chững ở lại.

Tìm con đường sống, vào Nam, ba cùng đi với người em trai kế, tài sản mang theo chỉ hai bộ quần áo và vỏn vẹn một đồng dính túi. Không có tiền, ba và chú phải cuốc bộ từ Nam Định vào Đà Nẵng. Dọc đường, tứ cố vô thân, hai anh em vất vưởng rày đây mai đó, kiếm sống độ nhật với bất cứ công việc gì ai thuê. Tối đến, hai anh em ngả lưng dưới hốc cây, vỉa hè, hay chân cầu…Với ý chí mãnh liệt, đã đi thì phải tới. Cuối cùng, ba và chú đã đến Đà Nẵng.

 

 Tại Đà Nẵng

 

 Căn nhà nhỏ ngay lòng chợ Cồn là căn nhà thuê của ông chú, chú ruột của mẹ tôi. Khu này trước đây là cồn đất hoang giữa lòng thành phố, là bãi phóng uế công cộng. Khi Pháp đến, họ xây cất thành ngôi chợ khang trang được đánh giá là ngôi chợ lớn của Đà Nẵng.

 

                

tran thi nhat hung (3)

Chợ Cồn Đà Nẵng thời Pháp thuộc
(Trích từ http/forum.dng.vn)

 

 

 Nhà ông chú, định cư trước đó nhiều năm, là xưởng bánh kẹo. Ba và chú đến đó nương thân, xin học nghề, có cơm ăn hằng bữa và có chỗ che mưa đụp nắng qua ngày. Rồi ba xin phép ông chú đưa mẹ và đứa con trai vào Nam.

    Ba mẹ sum họp, cuộc đời như thế tạm ổn - ổn theo kiểu biết đủ thì đủ. Thế nhưng, đường đời đâu phải lúc nào cũng bằng phẳng. Muốn an phận thủ thường đâu phải dễ. Ba tôi lại một lần nữa, để mẹ, em trai và con trai ở lại, còn ông một mình, nuốt ngược nước mắt vào lòng từ giã mẹ rồi lặng lẽ ra đi...

 

Số là từ khi mẹ và anh tôi vào Đà Nẵng, tuy được xem là “con cháu trong nhà, dù ba mẹ đỡ đần công việc như những người làm thuê, nhưng ba mẹ chỉ được nuôi ăn mà không nhận được đồng lương nào. Tiền với ba tôi không hẳn là cứu cánh, song nó là phương tiện tối thiểu rất cần thiết để giải quyết nhu cầu cơ bản của con người.

Ngày mẹ sinh người con thứ hai, vì không có tiền, ba phải đưa mẹ vào nhà thương thí. Đứa bé èo uột vì cả mẹ lẫn con đều thiếu dinh dưỡng. Mẹ tôi không đủ sữa cho con. Sữa bên ngoài thì không có tiền mua, nên chỉ vài hôm, đứa bé sinh bịnh chết tức tưởi trong lòng mẹ. Với nỗi đau xé ruột xé gan, ba mẹ tôi ôm con vào lòng khóc ròng, buồn tủi cho số phận, số kiếp hẩm hiu bất lực của chính mình. Cứ thế, một đứa rồi hai đứa…, cũng cùng số phận. Không còn chọn lựa nào khác, ba tôi, một lần nữa, quyết định ra đi…

 

 

Ngậm ngùi chia tay vợ con, tạm gởi mẹ và anh tôi nơi nhà người chú, ba lặng lẽ một mình rời nhà, bắt đầu bước vào con đường vô định. Ba đi mãi không định hướng. Con đường trước mặt không vẽ ra những tia hy vọng, nhưng ba tôi vẫn hy vọng, vì đó là sức sống của con người, là động lực, sức đẩy cho ba tiến tới. Ba lặn lội hết tỉnh này thành phố kia, đi tới đâu kiếm sống qua ngày đến đó. Đất miền Nam, hầu như nơi nào cũng có dấu chân ba. Bữa đói, bữa no, có khi phải lang thang  ra nghĩa địa ngủ tạm. Những lúc tủi cực, tuyệt vọng tưởng có thể gục ngã, thì chính tình thương con, nhớ mẹ tôi đang trông đợi đã là sức mạnh để ba đứng dậy tiếp bước con đường chông gai. Rồi với thời gian, men mãi trong đường hầm tối mịt mù, ba cũng tìm ra ánh sáng. Ông Trời không nỡ tuyệt đường sống kẻ có lòng. Ba học được nghề làm bánh mì, dành dụm được một số vốn đủ để lập nghiệp. Cuối cùng, ba trở về miền Trung, nơi có mẹ, chú và anh trai tôi đang trông đợi.

 

 Đà Nẵng rồi Quảng Ngãi

 

Ba thuê nhà trong lòng Chợ Mới, Đà Nẵng cách chợ Cồn nhà ông chú khoảng vài tiếng đi bộ. Chợ Mới là một trong số các chợ lớn của Đà Nẵng. Vị trí hồi đó không thuận lợi, không nằm ngay trung tâm thành phố, song cũng là nơi nhộn nhịp với nhiều kios nhỏ, chủ yếu bán tạp hóa, thực phẩm, hàng khô và trái cây rau củ.

Căn nhà nhỏ có tầng lầu nằm ngay trong lòng chợ mà ba tôi thuê, mỗi khi bước về nhà, từ đường cái chính, phải len qua bao hàng quán, sạp gụ và những người ngồi bệt bán rau, hàng ăn vặt vãnh. Ba đón mẹ, chú tôi và cậu con trai về. Ba mở lò sản xuất bánh mì Tây, món ăn với thời gian dần dần quen, rất hợp khẩu vị với dân Việt.

Khi tôi bốn tuổi, ba mẹ quyết định chuyển cả gia đình vào lập nghiệp tại Quảng Ngãi, nhường cơ sở tại Đà Nẵng lúc đó đã vững vàng cho người em trai của ba, khi chú lập gia đình sinh con đẻ cái, khi đã chính thức mua đứt căn nhà đó.

 Tỉnh Quảng Ngãi vào năm 1955 hồi ba mẹ tôi mới dọn đến chỉ là một thị trấn nhỏ, nếu không muốn nói như một làng quê, đi bộ tứ phía chừng một tiếng đồng hồ là hết phố. Xung quanh toàn đầm lầy và đồng lúa bạt ngàn, nhà tranh vách đất, lũy tre xanh, cây ăn trái, khói lam chiều, và đôi khi, lơ lửng vài con diều cất tiếng sáo vi vu trên bầu trời xanh.

 Khác với Đà Nẵng lúc đó chưa sầm uất, nhà cửa thấp lè tè, cao lắm chỉ hai tầng lầu, nhưng có bến Bạch Đằng nằm giữa trung tâm, thuận lợi giao thông, nhất là cho tàu bè qua lại chuyên chở hàng hóa đã là đối tượng cho Pháp chiếu cố chọn nơi đó khai thác và phát triển với cái tên Tây đặt là Tourane. Pháp đã xây cất nhiều cơ sở đáng kể như nhà thờ, trụ sở hành chánh, bưu điện, nhà thương, tòa thị chính, trại lính, rạp hát, tu viện, trường học, chợ búa..., rất kiên cố, với lối kiến trúc Âu Châu.

Quảng Ngãi trái lại, chỉ cách Đà Nẵng ba tiếng xe hơi, nhưng dân cư thưa thớt, nền văn minh chưa hiện diện nơi này. Một chiếc ôtô hay trực thăng vù vù trên trời cũng thu hút bao ánh mắt ngạc nhiên. Trong tỉnh, phương tiện giao thông người dân dùng xích lô, xe đạp hay đi bộ. Hồi đó, gia đình nào sắm được chiếc xe gắn máy là khiến bao người ngưỡng mộ.

   Trong phố đáng kể nhất và được đánh giá đẹp nhất là phòng đọc sách nằm trên một khuôn viên nhỏ tọa lạc tại ngã năm. Những cây bàng được trồng xung quanh tỏa bóng râm mát là nơi để mọi người nghỉ chân tìm chút thảnh thơi. Ai muốn mở mang kiến thức thì vào tìm sách đọc. Ai muốn tâm tình thì loanh quanh ngoài khuôn viên hoặc lững thững dạo ngắm giàn hoa nhỏ li ti đủ loại, đủ màu…

Sinh hoạt về đêm gần như tập trung nơi đây, khởi sắc qua những gánh chè đậu ván, đậu đen đập nước đá kêu lách cách. Khách ăn ngồi bệt trên bệ đường hoặc trên những chiếc ghế nhựa của người bán chè. Thỉnh thoảng, ban thông tin chính quyền dựng một sân khấu nhỏ trình diễn văn nghệ hay chiếu phim hài hước hoặc phim về cuộc đấu tố miền Bắc để mọi người hiểu về chế độ cộng sản. Ngoài nơi này, trong phố chỉ toàn nhà trệt mái ngói lẫn mái tôn lụp xụp…

Tất cả đều mới khai hoang, bắt đầu một cuộc sống mới.

*Lò bánh mì Chí Thành

 

   Ba mẹ tôi chọn nơi này gây dựng lại từ đầu, thuê một căn nhà mái tôn, bề ngang khá rộng và bề dọc khá sâu nằm trên con đường mang tên nhà cách mạng Phan Bội Châu nay đổi là đại lộ Hùng Vương. Còn Phan Bội Châu thì di dời sang con đường khác khi Quảng Ngãi với thời gian đã chuyển mình thành một thành phố lớn sầm uất với biết bao nhà cửa đồ sộ cùng những đường phố rộng thênh thang.

 

                   

Tại đây, ngoài lò bánh mì, ba mẹ còn thuê nhân công để sản xuất kẹo, bánh ngọt đủ loại cung cấp cho cả tỉnh và vùng phụ cận nông thôn mà ba mẹ đã học được từ nhà ông chú.

 
tran thi nhat hung (4)

tran thi nhat hung (5)
  Bánh oản

             


 

Những chiếc bánh oản bằng bột nếp hình tháp cụt nhân đậu phụng và mè rang giả nhỏ, gói giấy bóng kiếng đủ màu xanh, đỏ, tím, vàng trên đỉnh đính một nhãn hoa nhỏ trông rất đẹp mắt. Người nông thôn rất ưa chuộng, mua để cúng vào ngày rằm, mồng một. Ba còn sản xuất kẹo dừa nâu nâu, lẫn bên trong lợn cợn bột dừa trắng. Kẹo chỉ bé, cắt khúc, dài bằng ngón tay út vấn tròn trong miếng giấy trắng mờ xiết hai đầu. Nhiệm vụ lũ con nít chị em tôi là vấn kẹo. Loại kẹo này không chỉ hợp khẩu vị cho bọn trẻ con mà ngay người lớn cũng rất ưa thích. Vị béo ngậy thơm ngon của đường và dừa quyện vào nhau ăn bùi bùi, rất ngon. Ngoài ra, ba mẹ tôi còn sản xuất kẹo “xìu” (kẹo đậu phụng pha mè), đôi khi còn làm kẹo kéo phân phối cho người bán rong. Có bánh khảo, làm từ bột nếp nhân đậu xanh hay đậu đen, đặc biệt các đám hỏi, đám cưới thường đặt mua làm sính lễ. Tháng tám âm lịch thì có bánh Trung Thu nướng, bánh dẻo, lồng đèn…Riêng với bánh mì, vì ba là người đầu tiên xây lò nơi đây, nên ba tôi được xem là “Ông Tổ Bánh Mì Quảng Ngãi.

Rồi từ căn nhà thuê, gặp cơ hội, ba mẹ mua được căn đối diện. Sau đó xây lầu và dựng bảng hiệu “Chí Thành” hàm ý có chí sẽ thành công, nhằm nhắc nhở thành quả của mình cũng như nhắn nhủ con cháu mai sau.

 

                         

 

tran thi nhat hung (6)
Quảng Ngãi ngày nay

 

 

    Bấy giờ đời sống đã khấm khá, ba mẹ còn sắm thêm một trang trại cách nhà đang ở mười lăm phút đi bộ xây sẵn sáu căn nhà cho sáu người con. Nhớ nghĩ đến quãng đời đau thương, nhọc nhằn qua, ba mẹ luôn xẻ chia đến những người hoàn cảnh khó khăn, hết lòng hỗ trợ vào những công tác từ thiện cứu giúp đồng bào địa phương, nhất là trận bão lụt lịch sử năm Giáp Thìn 1964, trận đại hồng thủy tàn phá dân lành, ba mẹ đã mua cả kho gạo để phát chẩn người cơ nhỡ. Năm Mậu Thân 1968, khi Việt cộng tấn công Quảng Ngãi vào mồng một Tết, ba mẹ cũng mở rộng cửa đón hằng trăm người tản cư. Họ nằm ngồi la liệt khắp nhà tôi suốt thời gian giao tranh. Ba mẹ còn đôn đáo cùng họ lo cơm nước, nấu từ chảo nấu kẹo dùng bao tải gạo làm nắp vung. Chảo cơm dở sống dở chín nhưng nói lên được tấm lòng mộc mạc chân thành của ba mẹ tôi:

 

       Thương người như thể thương thân.

Người ta gặp lúc khó khăn đến nhà.

Đồng tiền bát gạo đem ra.

Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên.

 

Chẳng những thế, ba còn nâng đỡ bạn bè thuở hàn vi, giúp bạn mở lò bánh mì, kết nghĩa anh em, nên  người bạn cũng đặt cửa hiệu “Chí Thành” mà là “Chí Thành B” còn tiệm ba mẹ tôi nghiễm nhiên là “Chí Thành A”. Ba mẹ cũng cộng tác với người Bắc di cư lập “Hiếu Hữu Hội“ mà ba tôi là thủ quĩ, hỗ trợ hết mình về tài chánh, khi hội tậu hai hecta đất tại quận Tư Nghĩa làm nghĩa trang cho người đồng hương từ Bắc vào Nam và cả cho đồng bào nghèo tại địa phương. Tiếc thay, sau biến cố 1975, đất bị tịch thu và ba mẹ bị mất ba căn nhà tại trang trại do có ba người con vượt biên, dù vậy, ba vẫn về quê nhà miền Bắc, giúp đỡ anh em họ hàng lập trại nuôi vịt, dựng lại từ đường, nhà cửa, tậu cả nghĩa trang cho gia tộc, và tu bổ miếu đền cho làng Vụ Bản, Nam Định.

 

tran thi nhat hung (7)
  Lò mì gạch đốt củi.      


                         

 

   Chiếc bánh mì đến tay người dùng thời đó là bao công lao khó nhọc, sản xuất từ lò gạch đốt củi khói um và đen sì, tỏa sức nóng hừng hực, mỗi khi đốt hong lò xong, phải cào than ra rồi thọc cây giẻ vào lau lò. Chưa kể việc nhồi bột. Hàng chục ký lô bột lần lượt nhồi bằng tay là mồ hôi của ba tôi đẫm như tắm, nhất là vào mùa hè nhập với cái nóng vô cùng khủng khiếp của miền Trung. Ngày nay với công nghệ hiện đại, lò nướng bánh mì cũng như công việc nhồi bột đều bằng máy điện không vất vả như xưa nữa.

Những lúc trà dư tửu hậu, chúng tôi thường nhắc lại những điều này, nhớ đến công lao và cách sống thiện lương của ba mẹ, nhất là ba tôi, với lòng tri ân vô bờ bến, như một gương sáng để con cháu noi theo…

 

 

 

 

 

 

              

 

                          

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2020(Xem: 8269)
Hồi tháng Giêng năm nay, ông Mohan Paswan, một tài xế xe thồ tuk-tuk, bị thương trong một tai nạn giao thông. Ông tạm trú ở Gurugram, ngoại ô thủ đô New Delhi, nơi ông suốt ngày hành nghề chở khách bằng chiếc xe cà tàng có gắn máy. Tiền kiếm được ông gửi về quê nuôi vợ con ở Bihar, tiểu bang miền đông Ấn Độ, cách xa đến 700 dặm (trên 1.100 km.) Sau tai nạn, ông Paswan không thể tiếp tục chạy xe để kiếm tiền, không những thế ông cần sự săn sóc. Cô con gái ông, Jyoti Kumari, 15 tuổi, nghe tin liền nhảy lên tàu lửa đi tìm cha rồi ở cạnh ông để chăm lo. Thế rồi cơn đại dịch xảy ra.
02/07/2020(Xem: 5361)
- Chú An ơi, chú còn pin không cho tôi xin với? - Ô, hết rồi Cụ ơi, con cũng không có tiền để mua pin mới! Thôi Cụ chịu khó nghỉ nghe tin tức vài hôm nha, có tiền con sẽ mua cho Cụ! Ông Cụ mắt nhìn vào chiếc radio buồn buồn, cúi đầu xuống rồi lại ngước lên, trông thật tội! -Thì cũng đành vậy thôi. Cám ơn Chú! Cụ có chiếc radio đã cũ lắm rồi, khổ cỡ của nó bằng cuốn vở học trò, cái cần ăng ten đã sứt từ lâu, ông tự chế lại bằng cọng căm xe đạp khiến tiếng nói nghe khàn khàn, thỉnh thoảng ông phải đập đập vào tay nó mới có âm thanh; màu sơn bây giờ cũng phai gần hết, lốm đốm, thay vào đó, mồ hôi tay, nhiều chỗ dính chút xi măng, lấm tấm đất…và thời gian đã làm chiếc radio của ông trông thật tội! Ngày nào cũng vậy, cứ hai lần sáng tối, ông nhìn chiếc đồng hồ treo trên vách đất, đến giờ đài phát thanh thời sự là ông mở radio. Thời gian đầu, mấy Chú lo lắng, vì theo sự quy định của Sư Phụ thì tất cả những chú Tiểu mới vào chùa đều không được phép sử dụng bất cứ loại máy thu
29/06/2020(Xem: 6641)
Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu lại một câu đối đậm thiền vị tại ngôi chùa cổ Hội Khánh, nơi đặt Trụ sở Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo Bình Dương: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” Tạm dịch: Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây. Chùa xây dựng từ thế kỷ XVIII (1741), 1861 chùa đã bị chiến tranh tàn phá thiêu hủy. Đến năm 1868, chùa được xây dựng lại ở vị trí hiện nay với khuôn viên trên 1.200m2.
28/06/2020(Xem: 23866)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5632)
Thầy tôi là Giáo Thọ về môn Lịch Sử Phật Giáo và Cổ Đại Hán Ngữ trường Cao- Trung Phật Học Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Thầy có trí nhớ rất tốt, ngoài lĩnh vực chuyên môn thì hầu như “bỏ túi” nhiều bộ tiểu thuyết Lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc như Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử .v.v…Và đây là những viên kẹo tinh thần mà Thầy tôi thường thưởng cho huynh đệ chúng tôi trong lúc làm việc. Tưởng chừng những câu chuyện đó đã trôi vào dĩ vãng theo những năm tháng đầy biến động của cuộc đời, nhưng thật kỳ diệu tất cả dường như đều được sắp xếp lại gọn gàng trong ký ức của tôi như những món quà tâm linh và cùng lớn dần với dòng đời. Thời gian qua, thế giới đang oằn mình giữa cơn đại dịch Covid-19.
18/06/2020(Xem: 3904)
Phiên đại triều của Thiên Đình cứ trăm năm một lần kỳ này diễn ra trong bầu không khí thật hoang mang, mệt mỏi. Thái Bạch Kim Tinh nay đã già yếu lắm rồi. Cụ tâu trình quên trước quên sau khiến Ngọc Hoàng Thượng Đế chau mày rồi cũng phải thông cảm, khoát tay ra hiệu cho qua. Nam Tào, Bắc Đầu tai đã nghễng ngãng, gầy ốm hom hem, vầng trán nhăn nheo vì quá căng thẳng với chuyện của trần gian. Bà Lê Sơn Thánh Mẫu có lẽ nhờ Vườn Đào và biết sửa sang sắc đẹp cho nên trông vẫn trẻ. Thiên Lôi tuy còn khoẻ nhưng kể từ khi loài người chế ra cột thu lôi thì ông chỉ còn “ vớ ” được một vài người ngu ngơ chẳng may lang thang ngoài đồng ruộng trong lúc trời mưa gió. Ngoài ra uy quyền của ông còn bị sứt mẻ vì Ngọc Hoàng Thượng Đế vừa bổ
17/06/2020(Xem: 3285)
- Hai Chú đói bụng lắm phải không? Mặt mày xanh lè, tái mét hết rồi! Con có cơm của Ông Bà Chủ đem ra để chút nữa ăn. Con chia hai chú một miếng nha. Tôi quay nhìn, Dũng Đen chạy đến gần tôi nói giọng líu ríu, Nó chăn đàn vịt thuê cho Ông Bà Chín trong xóm, nghe nói nó quê Miền Tây nhưng không biết chính xác ở nơi nào, chỉ nghe nó kể nhà nghèo, anh em đông, Dũng là con trai lớn, dù thương lắm nhưng Ba Mẹ nó đành bấm bụng cho nó đi giữ vịt thuê lấy tiền để nuôi gia đình. Mỗi năm Dũng chỉ về nhà được một lần trong dịp tết. Dũng Đen nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng trông mạnh khỏe và lanh lợi, mọi người kêu Dũng Đen vì ngoài cặp mắt ra thì cả người nó đen nhánh. Không biết vì da nó đen hay là vì từ nhỏ đến giờ ở ngoài đồng ruộng nên mới đen như vậy?
15/06/2020(Xem: 4805)
Thuở ấy nơi thành Ca Tỳ La Vệ của xứ Ấn Độ nhiều tín ngưỡng, nhiều giai cấp và nhiều bất công, đấy là nơi lý tưởng cho họ sinh ra và gặp nhau để nối mối lương duyên kết thành vợ chồng trong kiếp cuối cùng. Chàng là Thái tử phước báu đầy người với 32 tướng tốt, sức khỏe phi thường. Nàng là công chúa nước nhỏ láng giềng, dung mạo đoan trang và diễm kiều, lúc nào cũng là đối tượng thu hút cho các vương tôn công tử con nhà quyền quý đến tuổi kén vợ. Nhưng duyên trời đã định sẵn cho họ thành vợ chồng, nên cho dù anh chàng Đề Bà Đạt Đa có ba đầu sáu tay đến đâu, có mưu mô giành giật tới đâu cũng không chiếm được trái tim nàng công chúa khả ái này. Tuy nhiên để cho công bằng và theo đúng luật lệ của hoàng gia, các chàng phải thi đấu trong tất cả các bộ môn từ cung cho tới kiếm, ai chiến thắng sẽ được làm phò mã.
04/06/2020(Xem: 4024)
- Nhanh chân lên các con, vào chòi tránh mưa thôi! Tiếng Thầy gọi, huynh đệ chúng tôi mỗi người cùng phụ nhau đem giỏ thức ăn và mấy đồ lặt vặt đi làm vào trong chòi. Gọi cái chòi chứ thật ra đây chỉ là chuồng Bò cũ của ông Sáu già gần chùa đã bỏ vài năm nay, trống trơn, chỉ còn phần mái che ở trên nhưng tranh cũng đã sắp mục rồi! Giữa bốn bề đồng ruộng trống trơn không có bóng cây thì cái chòi tranh là nơi duy nhất để tạm lánh những lúc nắng mưa.
03/06/2020(Xem: 10383)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]