Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sào Phủ & Hứa Do (Cổ Học Tinh Hoa)

16/11/202118:12(Xem: 6831)
Sào Phủ & Hứa Do (Cổ Học Tinh Hoa)


co hoc tinh hoa 2

Sào Phủ
 Hứa Do
 là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由).

Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của):

Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.
Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai.
Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao.
Hứa Do trả lời: "Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua."
Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống.
Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm."
Sào Phủ lại nói:
"Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi."
Huỳnh Tịnh Của phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."

 

Tích Sào Phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật.

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vô quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên khuyên ông ra làm quan. Ông trả lời:

Quán rằng: Nghiêu Thuấn thủa xưa
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do

Ý nói, ngay cả đời thịnh vượng thanh bình như thời vua Nghiêu vua Thuấn mà còn có người ẩn dật không ra làm quan. Ý nói rộng hơn: huống chi thời này!


Cổ học tinh hoa

Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người là lạ. Người nhường thiên hạ cho, mà không nhận cũng là lạ. Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạ cho là chuyện bẩn, phải đi rửa tai lại lạ hơn. Không để cho trâu uống cái nước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu lại càng lạ nữa.

Đời thượng cổ có ông Hứa Do(1) là một người sống ẩn dật ở trong chằm Bái Trạch(2).

Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc phía Nam sông Dĩnh Thuỷ.

Sau, vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm tổng trưởng cả chín châu(3). Hứa Do thấy vậy, không muốn nghe chuyện nữa, ra bờ sông Dĩnh Thuỷ rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ(4) đang dắt trâu xuống bờ sông, gặp Hứa Do hỏi:

-          Vì việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?

Hứa Do thuật chuyện, Sào Phủ liền gò cổ trâu lại mà nói rằng:

-          Ta toan cho trâu uống nước đây, lại e bẩn cả miệng trâu.

Nói đến đoạn dắt trâu lên quãng sông trên cho trâu uống nước.

Cao Sĩ Truyện(5)

Lời bàn:

 Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người là lạ. Người nhường thiên hạ cho, mà không nhận cũng là lạ. Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạ cho là chuyện bẩn, phải đi rửa tai lại lạ hơn. Không để cho trâu uống cái nước đã rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu lại càng lạ nữa.

Ôi! đọc bài này, tưởng như Hứa Do với Sài Phủ là hai người, nếu chẳng ngông cuồng, thì cũng gàn dở. Nhưng vì Hứa do và Sào Phủ hiểu thấu danh lợi nó hãm hại người ta dễ làm cho mất hết liêm sỉ, cho nên hai ông không muốn để cái làm vui sướng, thì cũng là những bậc cao sĩ thờ một cái chủ nghĩa cao quý vậy. Chả bù cho những phường tham danh, trục lợi thường say mê danh lợi, thậm chí đến chết vẫn chưa tỉnh cho!

 ----------------------------------

(1) Hứa Do: bậc cao sĩ đời thượng cổ

(2) Bái Trạch: chỗ có cây mọc tùm lum gọi là bái, chỗ nước đọng nhiều gọi là trạch

(3) Chín châu: đời thượng cổ nước Tàu chia ra làm chín khu để cai trị (Duyên, Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương)

(4) Sào Phủ: bậc cao sĩ đời thượng cổ, không ưa thế lợi, ẩn ở trong núi, lấy cây làm tổ nằm ở trên cho nên gọi là Sào Phủ (sào nghĩa là tổ)

(5) Cao Sĩ Truyện: sách của Hoàng Phủ Mật đời nhà Tấn soạn kể chuyện những bậc cao sĩ ẩn dật đời xưa bên Tàu.



co hoc tinh hoa


Cuốn Cổ học tinh hoa (in lần đầu năm 1925), là một trích tuyền những mẩu chuyện có ý vị triết học trong các bách gia chư tử Trung Hoa xưa. Cho đến ngày nay, cái di sản văn hóa thuộc về toàn nhân loại ấy vẫn không ngừng hấp dẫn chúng ta và có ích cho chúng ta về nhiều mặt.
Lần tái bản này in theo bản in tái bản năm 1988 của Nhà xuất bản TP.HCM hầu như giữ nguyên bản in đầu tiên, trừ một số chú thích và lời bàn xét ra không còn ý nghĩa gì. Nội dung sách cũng in thêm vài bài viết của nhà nghiên cứu văn học Mai Quốc Liên mong giúp các bạn hiểu thêm nội dung triết học của cuốn sách.
Tác giả biên dịch quyển sách này là quyển đầu, có ý bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ bao nhiêu nghìn năm về trước, rõ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước nhà thêm được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến, rộng được ít trí thức tùy thuộc về Cổ học mà thật khác nào “như thóc gạo, như vải lụa”, thường cần đến hằng ngày. Hy vọng quyển sách này sẽ giúp các bạn đọc được một phần trong muôn phần ấy.


co hoc tinh hoa 2

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Tiểu tự
Không quên được cái cũ
Lúc đi trắng, lúc về đen
Lợi mê lòng người
Lấy của ban ngày
Khổ thân làm việc nghĩa
Các cư xử ở đời
Tu thân
Ôm cây đợi thỏ
Đánh dấu thuyền tìm gương
Ba con rận kiện nhau
Hai phải
Tăng Sâm giết người
Bán mộc bán giáo
Ngoc ở trong đá
Bắt chước nhăn mặt
Cái được cái mất của người làm quan
Can vua bỏ rượu
Khéo can được vua
Chết mà còn răn được vua
Yêu nên tốt, ghét nên xấu
Hà bá lấy vợ
Ghét con không giống mình
Lợn mẹ giết  lợn con
Giáp, Ất tranh luận
Mặt trời xa, gần
Cách phục lòng người
Lòng cương trực
Tri, trung, dũng
Biết lẽ ngược xuôi
Tài nghệ con lừa
Đánh đàn
Thổi sáo
Người nước Lỗ sang nước Việt
Giữ lấy nghề mình
Truyện người A Lưu
Mất búa
Tường đổ
Người con có hiếu
Thầy Tăng Sâm
Ông quan thanh bạch
Không nhận cá
Của báu
Biết rõ chữ “nghĩa”
Tri kỷ
Cảm tình
Vì nghĩa công, quên thù riêng
Dong người được báo
Nói thí dụ
Con cú mèo và con chim gáy
Con cò và con trai
Hồ mượn oai hổ
Mạnh thường quân vào nước Tần
Thập Bì nói chuyện với Huệ Vương
Tham lợi trước mắt, quên hại sau lưng
Trước khi đánh người phải biết giữ mình
Không nên sát phạt lẫn nhau
Diều gỗ
Lá dó
Chữ tín
Tự lấy làm khoan khoái
Người khôn sống lâu
Vợ răn chồng
Bà huyện can đảm
Thế nào là trung thần
Báo thù
Cách dùng pháp luật
Thật giả khó phân
Truyện đười ươi
Thuật xem tướng
Theo ai phải cẩn thận
Say, tỉnh, đục, trong
Nhan Súc nói chuyện với Tề vương
Khấu Chuẩn thương nhớ mẹ
Tình mẹ con con vượn
Học trò biết học
Phúc đấy, họa đấy
Họa phúc không lường
Vẽ gì khó
Âm nhạc
Trí và nhân
Hết lòng vì nước
Bọ ngựa chống xe
Ứng đối linh lợi
Thửa giày
Cứu người lúc nguy cấp
Nghèo mà không oán
Thân trọng hơn làm vua
Thân trọng hơn thiên hạ
Chúc mừng
Người bán thịt dê
Thành thực
Mẹ hiền dạy con
Ngọc bích họ Hòa
Nuôi gà chọi
Dùng chó bắt chuột
Lời nói người bán cam
Vợ chồng người nước Tề
Đầy thì đổ
Ông lão bán dầu
Gặp quỷ
Mua nghĩa
Ứng đối giỏi
Hà chính mãnh ư hổ
Hang Ngu Công
Trung hiếu lưỡng toàn
Mong làm điều phải
Kẻ bất chính
Nhân trung dài sống lâu
Thuốc bất tử
Cái lẽ sống chết
Nói về sống chết
Biết dở sửa ngay
Tài và bất tài
Quên cả cái thân
Đại đồng
Cầu ở mình hơn cầu ở người
Hòa thuận với mọi người
Mất cung
Muôn vật một loài
Lúc nào đuợc nghỉ
Có chịu lo, chịu làm mới sống được
Chính danh
Nên xử thế nào?
Chiếc thuyền đựng chiếc đò
Rắn rời chỗ ở
Nhường thiên hạ
Rửa tai
Chết đói đầu núi
Đời người
Ba điều khó học
Ba điều vui
Thương kẻ già yếu
Áo đơn mùa rét
Dâng như cứu cha
Nuôi mẹ bằng điều phải
Say bắn chết trâu
Tên tù nước Sở
Bệnh quên
Bênh mê
Vợ lẽ phải đòn
Khoét mắt
Vợ xấu
Ghen cũng phải yêu
Lời con can cha
Một cách để lại cho con cháu
Một cách lo xa cho con cháu
Thầy trò dạy nhau
Lưỡi vẫn còn
Không chịu nhục
Câu nói của người đánh cá
Vua tôi bàn việc
Khó được yết kiến
Không phục nước Tần
Cậy người không bằng chắc ở mình
Phẩm trật ông quan, phẩm giá con người
Bài trâm của người làm quan
Cười người ta khóc
Hiếu tử, trung thần
Đọc sách cổ
Mất dê
Thực học
Đây mới thật là thầy
Bỏ quên con sinh
Chọn người rồi sau hãy gây dựng
Cơ tâm
Không đợi trông cũng biết
Khinh người
Hai cô vợ lẽ người nhà trọ
Ba điều phải nghĩ
Lo, vui
Thấy lợi nghĩ đến hại
Thủy chung với vợ
Đáng sợ gì hơn cả
Chỉ biết có mình
Thở dài
Thằng điên
Người xuất tục
Vợ thầy kiện
Ác ngầm
Bảy cô vợ lẽ
Gõ nhịp mà hát
Liêm, sỉ
Tiễn người đi làm quan
Viếng người đi làm quan
Đức uống rượu
Làng say
Treo kiếm trên mộ
Chết vì lễ nghĩa hay vì tình
Vì nghĩa nên tình
Nghĩa công nặng hơn tình riêng
Mẹ khôn con giỏi
Tu tại gia
Người vợ hiền minh
Trọng nghĩa khinh tài
Mua xương ngựa
Lời nói kẻ bắt rắn
Hòa vi quý
Cách trị dân
Can gì mà phá đi
Hay dở đều do mình cả
Ngụy biện
Không chịu theo kẻ phản nghịch
Cách cư xử ở đời
Tự xét lại mình
Không nên câu nệ
Tri kỷ
Trồng khó, nhổ dễ
Người kiếm củi được con hươu
Hỏi thăm dân
Dân quý nhất
Nhuộm tơ
Kéo lê đuôi mà đi
Phải biết phòng xa
Một câu đoán đúng
Cùng, đạt bởi số
Thư viết răn con
Viết thư khuyên bạn
Thư viết cho bạn
Tham thì chết
Vì tham bị hại
Phân tích không rõ
Không yêu nhau mới loạn
Cũng là ăn trộm
Lo trời đổ
Dùng rượu say để khiến chồng
Tưới dưa cho người
Cách biết lòng người
Cách làm cho khỏi tức giận
Tiễn một lời nói
Quý lời nói phải
Tư tưởng Lão Tử
Làm nhà cỏ cũng đủ
Thế nào là đại trượng phu
Thiên hạ sĩ
Dự Nhượng báo thù
Quan tài con
Lệnh thừa không bằng ngay thiếu
Bắt thay chiếu
Đám ma to
Muôn vật một thể
Tự tính
Ngu Công dọn núi
Bạt
Danh ngôn danh lý
pdf-download

Cổ Học Tinh Hoa_Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc_Từ An Trần Lê Nhân

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2019(Xem: 6798)
Chùa do Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) khai sáng vào đầu thế kỷ XVIII. Thiền sư là đệ tử đắc pháp của Hòa thượng Minh Hoằng - Tử Dung, được Hòa thượng trao tâm ấn năm 1712. Bấy giờ, chùa đã trở thành một đạo tràng lớn, có hàng vạn đệ tử học đạo, nghe pháp. Trong ba năm 1733, 1734 và 1735, Thiền sư đã mở ba Đại giới đàn truyền giới cho hàng vạn người tại chùa. Năm 1740, Thiền sư mở đại giới đàn Long Hoa ở kinh thành; năm 1742 mở Đại giới đàn tại chùa Viên Thông, nơi ngài khai sơn trước chùa Thiền Tôn. Thiền sư viên tịch năm Nhâm Tuất (1742), bảo tháp dựng ở một triền núi phía Đông Nam chùa vào tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), la thành bao quanh đồi tháp được xây vào năm 2001 nhân dịp đại trùng tu ngôi tổ đình.
15/12/2019(Xem: 18920)
INTRODUCTION "WITHIN A TREE, THERE IS A FLOWER WITHIN A ROCK, THERE IS A FLAME" BY SENIOR VENERABLE THICH NGUYEN TANG, QUANG DUC MONASTERY MELBOURNE, AUSTRALIA. "...The gift of the Dhamma excels all gifts; the taste of the Dhamma excels all tastes, and delight in the Dhamma excels all delights. The eradication of craving (i.e., attainment of arahatship) overcomes all ills (samsara dukkha). The gift of the Dhamma is the greatest giving among the all other givings. The one who is well trained in the Dhamma will share his understanding of the Dhamma either by writing a book, by preaching Dhamma, by discussing Dhamma, or by writing an article. Master Thich Nguyen Tang has used all these methods in his contribution to the Dhamma. Giving food or clothes or any other material items to a person makes them happy and they indeed will survive in the world, but they cannot get rid of this terrible circle of birth and death. It can be done only by understanding the noble Dhamma. Thus, the wr
09/12/2019(Xem: 4571)
Hơn một thế kỷ trước, một người quốc tịch Anh đã thất bại trong việc nghiên cứu về Giáo Lý Đạo Phật. Đó là giáo sư Rhys Davids, con của một mục sư Cơ Đốc Giáo. Ông đã bỏ ra nhiều năm học tiếng Pali, kiên nhẫn tìm tòi, nghiên cứu các kinh điển Phật Giáo chỉ để mong đạt mục đích là chứng minh giáo lý Đạo Phật thua xa giáo lý Cơ Đốc. Nhưng Rhys Davids đã thất bại với công việc này!
07/12/2019(Xem: 8951)
Cuối năm, lên núi thăm Chùa Sắc Tứ Kim Sơn, hầu chuyện với Thầy trụ trì Thích Nguyên Minh, tôi được Thầy ban tặng một cuốn lịch để về treo đón năm mới Canh Tý 2020.
05/12/2019(Xem: 4821)
Tiểu Truyện của HT. Thích Huyền-Tôn 玄宗小傳 (Đây là bài Tự Thuật, nên 2 chữ Ht(trong bài) là người viết, {Huyền Tôn} cũng là đạo hiệu. Còn 2 chữ HT lớn, Là để chỉ cho các HT đương thời. ) Đời sống Đạo của HTHuyền-tôn: *Sanh: VL. 4807. Mậu-thìn (1928) *6t, xuất-gia. Quy-Y, Pd Như-Kế. Giáp-tuất (1934). *13t, Thọ Sa-di, PhápTự Giải-Tích. Tân-Tị (1941). *20t, Tỳ-Kheo, HiệuHuyền-Tôn. Mậu-tý (1948). *43, Thượng, Tọa. Chùa Pháp-vân, Tỉnh Gia Định Sai-gòn. *66, Hòa Thượng, Tại Hoa Kỳ.
26/11/2019(Xem: 7755)
Những ngày ở Áo Thích Như Điển Lâu lắm rồi tôi mới trở lại Áo trong mùa Đông như năm nay, từ ngày 22 đến 24 tháng 11 năm 2019. Thầy Viên Duy và một Phật Tử đến phi trường Wien (Vienna) đón tôi vào chiều ngày 22 tháng 11, đưa về chùa Pháp Tạng, nơi Thượng Tọa làm Trụ Trì và Hòa Thượng Thích Trí Minh làm Cố vấn và lãnh đạo tinh thần. Đây chẳng phải là lần đầu tiên tôi đến Áo, mà những lần trước đó, kể từ năm 1978 đến nay chắc cũng hơn 10 lần, nhưng mỗi lần lại mỗi khác, chẳng có lần nào giống lần nào cả
18/11/2019(Xem: 6600)
Đại chúng thương mến, Như thông lệ hàng năm với 4 khóa tu Xuân - Hạ - Thu - Đông, Khóa Tu Mùa Đông năm nay được chùa Sắc Tứ Kim Sơn tổ chức vào các ngày 20,21,22/12/2019 (Nhằm ngày 25,26,27/11 ÂL). Thương mời Đại chúng cùng về chùa thực tập ăn cơm chánh niệm, thiền hành, thiền tọa, tụng kinh, nghe pháp thoại, chia sẻ pháp đàm và hát thiền ca cùng Quý Thầy - Quý Sư Cô giữa không gian xanh mát của núi đồi Kim Sơn. Khóa tu còn là cơ hội để quý vị trở về và tiếp xúc với một nếp sống giản dị - bình an, tập nhìn lại chính mình giữa cuộc sống bận rộn, hối hả.
31/10/2019(Xem: 5561)
Vào ngày 4/6/2018, nhà vẽ kiểu túi xách Kate Spade/ Kate Valentine thành công với tài sản ước lượng 200 triệu Mỹ Kim, bà đã treo cổ tự tử ở trong phòng riêng, để lại một tuyệt mệnh thư cho con gái, trong khi chồng ở một phòng khác. Điều này cho thấy “Thành công và tăm tiếng chưa chắc đã ngăn ngừa được sự buồn nản, chán đời” (Kate Spade's suicide is proof that money and fame can't deter depression).
29/10/2019(Xem: 5558)
Tuần qua tin tức thế giới chấn động khi được nhìn thấy 39 thi thể của những nạn nhân vì mục đích đi tìm hạnh phúc cho gia đình mình, cho mình và người thân theo quan niệm thường có ở thế gian ( của cải, vật chất) đã không màng đến tính mạng rủi ro xảy ra trên đường đến Anh Quốc . Chúng ta thường đã được nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận thức như sau khi đã tiếp xúc với nhiều dân tộc, ra nhiều thành phần trong xã hội " TẤT CẢ CHÚNG TA AI CŨNG MUỐN SỐNG CÓ HẠNH PHÚC CHỨ KHÔNG THÍCH KHỔ ĐAU " .
22/10/2019(Xem: 5126)
Quê quán tôi ở tận làng Nguyệt Biều, ngoại ô thành phố Huế, nơi nổi tiếng có những vườn thanh trà xanh um, trái ngọt. Hơn 50 năm trên đất Việt, tôi đã sống hơn 30 năm trên đất Huế, uống nước sông Hương hai mùa mưa nắng, ăn cơm gạo de An Cựu. Mùa hè tắm biển Thuận An, mùa xuân ngắm hoa đào trên chùa Từ Hiếu, mùa đông vẫn dầm mưa qua đò Thừa Phủ; chưa kể tiếng thông reo trên đồi Thiên An, tiếng ve sầu rả rích trên các tàng cây dọc con đường vào Thành Nội. Còn nữa, màu hồng, màu trắng của hoa sen hồ Tịnh Tâm, màu đỏ rực của phượng vĩ mùa hè. Tôi là dân Huế chính cống, Huế chay, “mô - tê - răng - rứa “ tôi nói không sai một chữ. Cũng có thể máu huyết tôi thấm đậm hương vị quýt Hương Cần, thanh trà, nhãn lồng Nguyệt Biều, mít Kim Long, dâu Truồi ngọt lịm...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]