Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di tích Cổ đại Ấn Độ "A Chiên Đà Thạch Quật" ( Ajantà) vẫn Trơ gan cùng Tuế nguyệt Ngàn năm Tuyệt tác

31/08/202119:14(Xem: 5762)
Di tích Cổ đại Ấn Độ "A Chiên Đà Thạch Quật" ( Ajantà) vẫn Trơ gan cùng Tuế nguyệt Ngàn năm Tuyệt tác





Di tích Cổ đại Ấn Độ "A Chiên Đà Thạch Quật"
vẫn Trơ gan cùng Tuế nguyệt Ngàn năm Tuyệt tác

(印度古代佛教阿旃陀石窟)



Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật (Ajanta, 印度古代佛教阿旃陀石窟) vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nghìn năm tuyệt tác, tọa lạc trên vách núi Maharashtra Dayak, phía Bắc của bang Maharashtra, Ấn Độ với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Tây lịch.

Trong A Chiên Đà Thạch quật có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo. Hang động vòng vách núi hình lưỡi liềm, tường thấp, trải dài hơn 550 mét. Với kiến trúc mỹ thuật tráng lệ, nét chạm khắc và bích họa tinh tế hoành tráng, là một Thánh địa Phật giáo, một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất phía Nam Ấn Độ.

Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay. 

Theo UNESCO, đây là những kiệt tác của Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật Ấn Độ sau này. Các hang động được xây dựng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 TCN và giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 400–650 sau Tây lịch bởi các tài liệu cũ hoặc từ năm 460–480 theo các tài liệu rộng rãi sau này. Đây là di tích được bảo vệ bởi Cục Khảo sát Khảo cổ Ấn Độ và kể từ năm 1983, quần thể này đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.

A Chiên Đà Thạch quật Phật giáo cổ đại Ấn Độ được chạm khắc bắt đầu Phật điện, Tăng phòng. Thuật ngữ “阿旃陀石窟” xuất phát từ tiếng Phạn (अजिंठा-वेरूळची लेणी; 阿谨提那; Ajinṭhā-verūḷacī leṇī) nghĩa là “Vô tưởng-無想, Vô tư-無思”.

A Chiên Đà Thạch quật cổ đại khai tạc vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, triều đại Minh quân Thánh triết Ashoka (A Dục Vương), vào thời kỳ Ấn Độ Phật giáo Quốc đạo, Phật giáo đồ kiền thành kính phụng Phật Tổ, nghiên cứu đọc Kinh thư, tu thân dưỡng tính, thâm sơn cùng cốc cảnh sắc trở nên danh lam thắng cảnh tú lệ. Thời gian tứ phương Tăng chúng vân tập, hương hỏa liên tục. Sau khi khai tạc, Phật giáo nơi đây được duy trì và phát triển liên tục với thời gian gần nghìn năm.

Vào thế kỷ thứ 5 và 6 Tây lịch, thời Vương triều Gupta, khoác kiến đại quy mô, tu sửa trang hoàng, bổ sung thêm nhiều hang động đầy màu sắc hơn.

Vương triều Gupta tồn tại từ năm 319 tới 467 ở phần lớn Bắc Ấn Độ, Đông Nam Pakistan, một phần của Gujarat và Rajasthan mà ngày nay là Tây Ấn Độ và Bangladesh.

Đến thế kỷ thứ 7 Tây lịch, với các chiến tranh hỗn loạn từ đó Phật giáo Ấn Độ dần bị suy giảm, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại bị ảnh hưởng thời cuộc loạn lạc mà phai tàn theo năm tháng, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại chỉ còn dĩ vãng trong ký ức bởi quá khứ lịch sử.

A Chiên Đà Thạch quật cổ đại nằm ẩn sâu trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan ở mền nam Ấn Độ và đã trở thành hoang phế cỏ mọc đầy, rừng cây rậm rạp phủ kín, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại không còn sự quan tâm chú ý của người dân nữa. Sau đó, các hang động của A Chiên Đà Thạch quật cổ đại đã âm thầm cô độc, lặng lẽ ngủ yên trong núi rừng, mãi đến đầu thế kỷ thứ 19, năm 1819 một nhóm quan chức người Anh đi săn thú rừng, tình cờ đã phát hiện ra một thế giới nghệ thuật kiến trúc cổ đại quý báu, từ A Chiên Đà Thạch quật cổ đại thần kỳ nổi tiếng cho thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Ấn Độ đã chìm lắng bao thế kỷ trôi qua.

Hai nghìn hai trăm năm sau, vào năm 1983 A Chiên Đà Thạch quật cổ đại bắt đầu mới liệt kê vào “danh sách Di sản Thế giới”.

Người ta phát hiện những bức tượng bằng đá mà Tam tạng Pháp sư mô tả hoàn toàn phù hợp, do đó, họ chắc chắn đây là hang động thực sự như Đường tăng Tam tạng Pháp sư Huyền Trang ghi chép. Đường tăng Huyền Trang du học tại Đại học Phật giáo Nalanda, Ấn Độ (629-645) và đã đến thăm vùng A Chiên Đà Thạch quật cổ đại vào năm 638. (Huyền Trang và công cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân loại).

Sau khi Đường tăng Huyền Trang, Tam tạng Pháp sư trở về bản Quốc, Ngài cảm hứng hạ bút ghi lại hồi ký với tựa đề “Đại Đường Tây vức ký” (大唐西域記).

A Chiên Đà Thạch quật cổ đại, các hang động thờ Phật có kích thước khác nhau, trong đó hang lớn nhất có diện tích khoảng 16m, được đục khoét hình vuông vức. Việc xây dựng các chùa hang động này cũng có sự khác nhau rất lớn, có những chùa được xây dựng một cách đơn giản nhưng cũng có những chùa được xây dựng khá công phu và tinh xảo. Một vài chùa được tạo mái vòm nhưng cũng có chùa không có.

Nhưng phần thiết yếu mà một ngôi chùa phải có đó là nơi thờ Phật. Trong giai đoạn Vương triều Vakataka (伐卡塔卡王朝), những nơi thờ tự Phật ít được để tâm xây dựng bởi vì những nơi có mặt bằng rộng rãi thì thường được dùng làm nơi ăn chốn ở và vân tập tín đồ... Sau đó, các nơi thờ Phật mới được xây dựng nhiều hơn. Các nơi thờ Phật thường được xây dựng dựa lưng vào vách đá phía sau ở trung tâm của ngôi chùa và trên mỗi nơi thờ tự thường đặt một bức tượng Phật ngồi bằng đá. Không chỉ có các hang động, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại đặc biệt nổi danh với những bức bích họa trên vách đá và trần hang.

Tổng cộng ở A Chiên Đà Thạch quật cổ đại có đến 500 bức. Màu sắc tranh được làm từ các chất khoáng và các chất có nguồn gốc thực vật nên vừa hài hòa, vừa tương phản mà vẫn tươi nguyên qua mấy nghìn năm. Toàn bộ các bức tranh đều tập trung thể hiện cuộc đời đức Phật và thể hiện các câu chuyện tiền thân của Ngài (trong đó có nhiều kiếp là các con vật, nhiều kiếp là những con người có xuất thân khiêm tốn). Vì thế, tuy đều gắn với đề tài Phật giáo nhưng các bức tranh không chỉ giới hạn trong cuộc sống tăng viện mà bao trùm hiện thực rộng lớn hơn: cả cuộc sống cung đình, cuộc sống của bao người bình dị nơi thị thành thôn xóm, thế giới chim thú, cỏ hoa và cả thế giới của các tiên nữ, các tạo vật thần linh trên thiên giới nữa. Một cuộc sống sôi nổi, hưng phấn và đầy đam mê. Những bức tranh thiếu nữ trong hang A Chiên Đà Thạch quật cổ đại được thể hiện rất quyến rũ với những đường cong mềm mại, thần thái sinh động trong từng ánh mắt, từng nét môi say đắm và e lệ.

Các nghệ nhân còn khéo lợi dụng sự phân bố ánh sáng để người xem khi chuyển dịch vị trí có thể thấy nhân vật trong tranh như chớp mắt, hé cười, hết sức sống động. Có thể nói, nghệ thuật Phật giáo đã sử dụng vẻ đẹp của thế giới vật chất như một phương tiện để hướng đạo khát vọng các tín đồ với vẻ đẹp tâm linh của Giác ngộ chân mạnh của nó nằm ở chính thông điệp của Đấng Giác Ngộ kêu gọi Tri kiến của chúng ta chế ngự, vượt qua những cạm bẫy cám dỗ. Vượt qua những hình thức ảo ảnh, giả ngụy của cái đẹp, ta sẽ thấy cái đẹp đích thực.

ajanta (1)ajanta (1)ajanta (1)ajanta (2)ajanta (3)ajanta (4)ajanta (5)ajanta (6)ajanta (7)ajanta (8)ajanta (9)ajanta (10)ajanta (11)ajanta (12)ajanta (13)ajanta (14)ajanta (15)ajanta (16)ajanta (17)ajanta (18)ajanta (19)ajanta (20)ajanta (21)ajanta (22)ajanta (23)ajanta (24)ajanta (25)ajanta (26)ajanta (27)ajanta (28)ajanta (29)ajanta (30)ajanta (31)ajanta (32)ajanta (33)ajanta (34)


Những hàng dài tượng Phật được đục đẽo bằng thủ công và những bức tượng Phật lớn trong hang là những công trình nghệ thuật tuyệt tác của Phật giáo Ấn Độ.

Nếu đến thăm quan A Chiên Đà Thạch quật cổ đại, nơi đây du khách sẽ phải thực sự ngạc nhiên trước khung cảnh hết sức hùng vĩ và các tuyệt tác. Ngay từ những bước chân đầu tiên, du khách sẽ phải choáng ngợp trước hàng dài tượng Phật được đục đẽo bằng thủ công ở mặt tiền của hang động. Vào sâu trong hang, cả một câu chuyện lịch sử về quá trình Giác ngộ, khổ công tu luyện gian khổ của đức Phật sẽ được thể hiện qua hàng loạt các tác phẩm điêu khắc trong hang.

Trong số những tác phẩm nghệ thuật ở đây có những tác phẩm đã đạt được đến vẻ đẹp đỉnh cao và trở thành tuyệt tác. Điều gây ấn tượng hơn nữa đó là cách mà những người thợ xa xưa đã tạo nên các tác phẩm nghệ thuật của mình.

Theo một số tài liệu, nguyên liệu chính để làm nên những bức vẽ chính là đá cuội và các loại rau quả. Rau quả được nghiền nát ra để tạo thành một chất keo, sau đó được nghiền tiếp và các viên sỏi đầy màu sắc để tạo ra một loại sơn cho những tác phẩm này.

Những chất liệu được người xưa nghiên cứu và tìm tòi đã được chứng minh và kiểm nghiêm qua thời gian hàng trăm năm, cho đến hôm nay vẫn giữ được vẻ đẹp của nó. Chính điều này càng làm tăng thêm giá trị về văn hóa lịch sử cho công trình A Chiên Đà Thạch quật cổ đại.

Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo A Chiên Đà Thạch quật cổ đại, có thể được cho cha đẻ của một ảnh hưởng lớn đến các hang động nghệ thuật Phật giáo sau này. Các thế hệ tương lai sẽ mô phỏng truyền thống này để phát dương quang đại, cho các tượng Phật lớn nhất thế giới tại Bamiyan, Afghanistan, một kỳ quan Phật giáo tinh xảo và lớn nhất thế giới, Borobudur, Indonesia, Angkor Wat, Campuchia, Thạch động Đôn Hoàng (Thiên Phật Động) tỉnh Cam Túc, Trung Quốc, Thạch động Vân Cương, phía Nam chân núi Vũ Châu, phía Tây thành phố Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, Thạch động Long Môn, phía nam, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc...và nhiều hơn nữa.


Video

印度古文明驚豔之旅-阿姜陀 阿姜陀石窟

https://www.youtube.com/watch?v=XQR0RtuxZsE

南印度阿旃陀石窟26號洞窟 Ajanta Caves (India)

https://www.youtube.com/watch?v=9QSi6jw2Pao

印度阿旃陀石窟,雕塑艺术精品

https://www.bilibili.com/video/BV1L4411S7BB/


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 百度百科)

https://whc.unesco.org/en/list/242/gallery/

https://www.ntdtv.com/gb/2019/02/19/a102515252.html

https://www.gq.com.tw/life/content-33726

facebook-1

***
youtube
 






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2021(Xem: 6545)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 17941)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 3524)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
30/11/2021(Xem: 25212)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
26/11/2021(Xem: 3441)
“‘Giống như một vị Bồ Tát’ là người mà tôi có thể mô tả về thuyền trưởng Jeon Je Young,” ông Nguyễn Hùng Cường, người tổ chức lễ tưởng niệm vị thuyền trưởng vừa qua đời, tại chùa Huệ Quang, Santa Ana, nói hôm Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Hai. Ông Cường là một trong 96 người được vị thuyền trưởng vớt trong hành trình vượt biển vào lúc 6 giờ 45 phút chiều ngày 14 Tháng Mười Một, 1985, trong lúc chiếc thuyền chở ông đang lênh đênh trên Biển Đông, bị nhiều tàu khác làm lơ trước đó. Ông Cường nói thêm: “Ông là ‘tộc trưởng’ của nhóm 96 người chúng tôi. Ông vừa ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng ông để lại biết bao yêu thương của không những 96 người, mà với cộng đồng Việt Nam.”
25/11/2021(Xem: 29747)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
23/11/2021(Xem: 14933)
314. Vua, Thiền Sư Trần Thái Tông Người thiết lập nền tảng cho Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Đây là Thời Pháp Thoại thứ 314 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 23/11/2021 (19/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
18/11/2021(Xem: 24826)
312. Thiền Sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đời Vua Lý Huệ Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 311 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 18/11/2021 (14/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
16/11/2021(Xem: 4744)
Sào Phủ Hứa Do là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由). Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của): Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Hứa Do trả lời: "Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua." Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm." Sào Phủ lại nói: "Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi." Huỳnh Tịnh Của phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567