Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài cảm nhận chân thành của một Phật tử khi xem Website Hội Đồng Hoằng Pháp của GHPGVNTN được thành lập tại hải ngoại.

27/07/202116:49(Xem: 12195)
Vài cảm nhận chân thành của một Phật tử khi xem Website Hội Đồng Hoằng Pháp của GHPGVNTN được thành lập tại hải ngoại.
trang web hoang phap



Vài cảm nhận chân thành của một Phật tử khi

xem Website Hội Đồng Hoằng Pháp

của GHPGVNTN được thành lập tại hải ngoại. 

(Nhân lễ Vía Quan Thế Âm thành đạo 19/6

kính dâng quý Đức Bồ Tát hiện đời trong Hội Đồng Hoằng Pháp của GHVNTH ) 


Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu  thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng  những người con  đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu  2021 đã thành lập được  hai trang Website Phật học tại hải ngoại : 

  • Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo 
  • trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn  chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ 

Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt  bỏ  rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo  đà  tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm  đọc lại những tác phẩm , biên  soạn, dịch thuật  của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học  giả nghiên cứu khắp nơi . 

May mắn thay với phương tiện kỷ thuật hiện đại chúng ta có thể tìm lại bất cứ một quyển kinh nào trong Đại Tạng Kinh đã được phiên dịch và luận giải. 

Thế nhưng vẫn có nhiều kẻ hở như lời Thông bạch sau của Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ - Cố Vấn chỉ đạo của Hội Đồng Hoằng pháp GHPGVNTN như sau 

" Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu.

Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người." 

Vì lý do đó tôi đã dành thật nhiều thì giờ để xem lại chủ trương và mục đích sự ra đời của Hội Đồng Hoằng Pháp và sự có mặt của trang website hoangphap.org để rồi hoan hỷ viết vài lời cảm nhận chân thành giới thiệu cùng các đồng  đạo ....cùng nhau chúng ta. tiếp nối mạng mạch từ bi, trí tuệ, dũng mãnh vô song của Phật giáo Việt Nam nhé 

Với lời ngỏ của LỐI VÀO trang mạng Hoằng Pháp như sau 

"Giới thiệu và xiển dương Phật pháp bằng ngôn ngữ như thật, tri kiến như thật.

Mở ra cánh cửa cho những ai đang tìm kiếm sự an lạc tĩnh lặng của nội tâm; cứu mình, giúp người, xoa dịu và hàn gắn những đổ vỡ chia ly của gia đình, xã hội; góp phần giải quyết những khổ đau triền miên của nhân sinh, kiến lập thế giới hòa bình, nhân ái.

Nối lại và mở rộng con đường của 25 thế kỷ truyền trì đạo lý giải thoát giác ngộ bằng phương tiện và kỹ thuật hiện đại, sao cho những thế hệ tương lai có thể tiếp nhận Phật pháp một cách hiệu quả và thích hợp nhất hầu áp dụng vào cuộc sống đầy biến động và thay đổi từng ngày của ngôi làng thế giới." 

Hẳn các bạn cùng tôi đã thấy được phương hướng hoằng pháp của GHPGVNTN  trong thế kỷ này rồi bạn nhỉ ! 

Trộm nghĩ  :Đạo Phật  chủ trương có mối giao hòa, gắn kết giữa vạn vật – con người và đó là điều  thực sự tồn tại trong mối tương quan với những người khác trong khi cuộc sống con người rất đơn giản ...chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi nhưng xã hội chúng ta lại cần một chữ “Chân” ....Một trái tim chân thành, những lời nói chân thật, những hành vi chân chính, đó là nền tảng cơ bản nhất cho sự sinh tồn và hạnh phúc của loài người chúng ta......và tôi đã từng tóm tắt ( Bài của H T Thích Trí Quang trong Phật Giáo Hải Ngoại số 17 ) với 10 ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO sau khi đọc trên trang mạng hoằng  pháp những ngày đầu tiên như sau

1- IN NHƯ THẬT 

(lý thuyết , phương pháp, kết quả đều hợp lý ) 

2- TÔN TRỌNG SỰ SỐNG 

3- CHỈ THỪA NHẬN SỰ TƯƠNG QUAN SINH TỒN 

4- XÁC NHẬN NGƯỜI LÀ TRUNG TÂM ĐIỂM CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI 

5- CHÚ TRỌNG “ Đối trị tâm bịnh con người trước hết 

6- ĐÀO LUYỆN CON NGƯỜI THÀNH BI TRÍ DŨNG 

  Bi là tôn trọng quyền sống của người khác 

  Trí là hành động sáng suốt lợi lạc cho mình và người 

  Dũng là hành động quyết tâm quả cảm 

 nhưng ....Dũng nếu không có Bi và Trí sẽ trở nên tàn ác .

   .......Bi nếu không trí và Dũng sẽ trở nên tình cảm ủy mị, nhút nhát

  .......Trí nếu không Bi và Dũng sẽ gian xảo và mộng tưởng 

7-KIẾN THIẾT MỘT XÃ HỘI MỚI 

( mà trong đó căn bản là con  người mới bình đẳng trong nhiệm vụ và trong hưởng thụ ) 

8-TIẾN LÊN VÔ THƯỢNG GIÁC 

( địa vị vô minh toàn diệt và trí tuệ toàn giác (

9- PHẢI TỰ LỰC GIẢI THOÁT( tinh thần tuyệt đối cần thiết)

10- HIỆN CHỨNG THỂ NGHIỆM

Và có thể nói khó  thể dùng lời nào để diễn tả nổi ngạc nhiên của tôi khi đọc lại Thông Bạch từ văn phòng của Ngài HT Thích Tuệ Sỹ "Phật sự trọng đại này không thể đảm trách chỉ bởi một cá nhân, hay một hội đoàn riêng lẻ, mà phải là sự nghiệp chung của bốn chúng đệ tử. Vì lợi ích an lạc và cứu cánh giải thoát của mỗi cá nhân, tự mình học hỏi, thông hiểu giáo lý, tự mình tu luyện bản thân, và đồng thời trao truyền những ích lợi thiết thực mà bản thân đã thể nghiệm qua quá trình tu học, vì lợi ích và an lạc của nhiều người, của các cộng đồng dân tộc và xã hội." 

Kính xin tán dương Ngài Cố Vấn chỉ đạo của HĐHP Thích Tuệ Sỹ như đúng với những lời đã được các học giả đã ca tụng Ngài trong mục Nhân Vật Phật Giáo của Trang Nhà Quảng Đức như sau:

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào, ông quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với chính phủ Việt Nam. Ông hiện là Đệ nhất phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).

Ông thông thạo tiếng Trung Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật [1]. Lúc bị bắt năm 1984 ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách Khoa Phật Học Đại Tự Điển[2].

Ông qui y Phật lúc 7 tuổi, học Phật pháp trong Viện Hải Đức tại Nha Trang, rồi sau đó là tại Thiền viện Quảng Hương Già Lam tại Sài Gòn.

Ông tốt nghiệp Viện Cao đẳng Phật học năm 1964, Viện Đại học Vạn Hạnh phân khoa Phật học năm 1965, được đặc cách bổ nhiệm là Giáo sư thực thụ Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ nhiều công trình nghiên cứu và khảo luận triết học nổi tiếng. Ông là Chủ bút của tạp chí Tư tưởng do Viện Đại học Vạn Hạnh phát hành. Ông cũng làm thơ, viết một số truyện ngắn đăng trên tạp chí Khởi hành (1969-1972), Thời tập (1973-1975). Ngoài ra ông cũng hiểu biết rất nhiều trong lĩnh vực triết học Tây phương. Ông là người đầu tiên thuyết trình về Michel Foucault tại Việt Nam.

Sau năm 1975 ông về lại Nha Trang, đến năm 1977 thì vào TP. Hồ Chí Minh sống tại Thị Ngạn Am, chùa Già Lam. Đầu năm 1978 ông bị đưa đi học tập cải tạo 3 năm, đến năm 1980 thì được trả tự do.

Ngày 1 tháng 4 năm 1984 ông bị bắt cùng với ông Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát). Tổ chức Ân xá Quốc tế tin rằng nguyên nhân việc bắt giữ Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu là do 2 ông là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) và các lưu tâm cũng như kính trọng các công trình nghiên cứu về Phật giáo và tác phẩm của họ đã phát sinh vào thời điểm chính quyền Việt Nam đang cố gắng kiểm soát hội Phật giáo[3].

Tháng 9 năm 1988 ông và Lê Mạnh Thát bị tuyên án tử hình vì tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Tháng 11 năm 1988 sau một cuộc vận động giảm án, bản án được giảm xuống còn tù chung thân[1]. Ngày 1 tháng 9 năm 1998 ông được thả tự do từ trại Ba Sao-Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Một năm sau đấy, do vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi[4]

Năm 1998 tổ chức Human Rights Watch đã tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards cho ông và 7 người Việt khác (Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Tần, Phạm Thái Thụy, Thích Trí Siêu và 2 người được dấu tên)[5][6]. Tháng 4 năm 2000 công an đã đến khám xét chùa nơi cư ngụ của Thích Quảng Độ và Thích Tuệ Sỹ. Và từ 2004 ông dường như luôn bị quản thúc ( theo tin RFA) 

Và đến năm 2021 này Mục đích và đường hướng của HĐHP đã được Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Cố Vấn Chỉ Đạo HĐHP minh thị như sau:

- Mục đích: Con đường truyền bá của đệ tử Phật là để mang lại an vui hạnh phúc cho số đông chứ không phải để vinh danh hay làm lớn mạnh tự thân Phật giáo. HĐHP được thành lập cũng không ngoài sứ mệnh “hoằng pháp lợi sinh” mà lịch đại tổ sư đã thực hiện trên 2500 năm qua; đặc biệt là tiếp nối mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong lý tưởng phục vụ nhân loại và dân tộc.

- Đường hướng: Phương tiện để hoằng truyền Chánh Pháp của đệ tử Phật là văn hóa, giáo dục, hướng về tất cả các tầng lớp xã hội, quốc gia và quốc tế; đặc biệt nhắm vào các thế hệ tương lai trong một thế giới đầy dẫy biến động và đổi thay từng ngày. Cụ thể, cần thực hiện các Phật sự như sau:

a) Kế thừa công cuộc phiên dịch kinh điển của Thầy-Tổ (qua Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng thành lập từ năm 1973), kiện toàn việc phiên dịch và chú giải bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam với ngôn ngữ chuẩn mực hàn lâm;

b) Thành lập đại học Phật giáo hải ngoại để thâu nhận và đào tạo Tăng Ni trẻ trong nước, hoặc bảo trợ từng Tăng Ni trẻ đi du học tại các đại học ngoài nước; tạo điều kiện cho họ làm việc về văn hóa, giáo dục, hoặc tham gia ban phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam;

c) Thành lập giảng sư đoàn, giáo thọ đoàn nhằm đáp ứng nhu cầu tu học của quần chúng Phật tử khắp nơi;

d) Lập trang mạng của HĐHP, cùng với việc xuất bản sách báo Phật giáo Việt ngữ hoặc song ngữ nhằm giới thiệu và hướng dẫn tuổi trẻ học Phật, góp phần đem lại an vui phúc lạc cho dân tộc và nhân loại.

e) Lập Ban Bảo Trợ nhằm cung ứng, tài trợ cho tất cả các dự án ngắn hạn và dài hạn của HĐHP.

Cuộc họp cũng đã thông qua việc hình thành khung sườn nhân sự thuộc HĐHP với sự tham gia của chư tôn đức Tăng Ni và Cư sĩ vào 4 Ban chính sau đây:

 

Cố Vấn Chỉ Đạo: HT. Thích Tuệ Sỹ (Việt Nam)

Chánh Thư Ký: HT. Thích Như Điển (Đức quốc)

Phó Thư Ký: HT. Thích Nguyên Siêu (Hoa Kỳ)

 

Ban Truyền bá Giáo lý (Giảng sư và Giáo thọ):

Cố vấn: Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan

Phó Ban: Hòa Thượng Thích Thái Siêu (Hoa Kỳ)

Phụ tá: Thượng tọa Thích Tuệ Uyển (Hoa Kỳ)

Thư Ký: Thượng Tọa Thích Hạnh Tấn (Đức quốc) 

 

Ban Phiên dịch  & Trước tác: 

Cố vấn: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ

Phó Ban: Hòa thượng Thích Thiện Quang (Canada)

Phụ tá: Thượng Tọa Thích Như Tú (Thụy Sĩ), Đại Đức Thích Hạnh Giới (Đức quốc), 

Sư Bà Thích Nữ Giới Châu (Hoa Kỳ), Ni Sư Thích Nữ Diệu Trạm (Pháp quốc),

Sư Cô Thích Nữ Giác Anh (Úc Châu).

 

Ban Báo chí & Xuất bản (Thông Tin):

Trưởng Ban: Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng (Úc Châu)

Phó Ban: TT Thích Hạnh Tuệ, Cư Sĩ Tâm Quang (Hoa Kỳ)

Thư Ký: Cư Sĩ Tâm Thường Định (Hoa Kỳ)

Ban Viên: Tâm Huy – Huỳnh Kim Quang, Quảng Tường – Lưu Tường Quang,

Nguyên Đạo – Văn Công Tuấn, Nguyên Trí – Nguyễn Hòa (Phù Vân),

Quảng Trà – Nguyễn Thanh Huy, Thanh Phi  – Nguyễn Ngọc Yến, v.v...

 

Ban Bảo trợ:

Trưởng Ban: Thượng Tọa Thích Tâm Hòa (Canada)

Phó Ban Úc Châu: Thượng Tọa Thích Tâm Phương (Úc Châu)

Phó Ban Âu Châu: Thượng Tọa Thích Quảng Đạo (Pháp), 

Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Phước (Đức)

Phó Ban Châu Mỹ: Ni Sư Thích Nữ Nguyên Thiện (Hoa Kỳ)

Thủ Quỹ: Ni Sư Thích Nữ Bảo Quang (Canada)

Thư Ký: Ni Sư Thích Nữ Đức Nghiêm (Canada)

Lời kết : 

Tự hào là người Phật Tử có được gia tài vô giá của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và  nhất là từ năm 2003 khi trở về Phú Quốc để thăm lại dì tôi ( Ni sư Thích Nữ Diệu Thuyền trụ trì chùa Hùng Long Tự tại Phú Quốc / VN ) và đã được trao truyền tất cả gia tài kinh sách của Sư Bà cùng lời giáo huấn của Sư Ông ( Sư Phụ Bà người khai sơn chùa Long Vân tại Gia Định trước 1940 ) sau khi đã xem xét căn cơ  của tôi và kể từ ngày ấy đến nay tôi đã không phụ lòng Sư Bà đã tin tưởng . 

Và năm nay quả  là một đại phước đuyên đã  đến với tôi (dù  bước vào tuổi đông ) vẫn còn tìm được một Hội  Đồng Hoằng Pháp. để nương tựa tâm linh (dù biết rằng tự mình phải đốt đuốc soi đường nhưng ít ra phải có bản đồ trong tay ) thì mục đích và đường hướng của HĐHP và ban biên tập của trang thật là điều mà tôi không hề dám  mơ nghĩ tới . 

Kính xin dâng lời tri ân đến quý Ngài trong Hội Đồng Hoằng Pháp và riêng với với ban Báo Chí và Thông Tin kính  xin được hân hoan gửi lời chào mừng của người  hằng mong  đón nhận những tác phẩm, đã được chọn lọc và online trên trang mạng hoằng pháp như được ngọn đèn chánh pháp soi đến những nơi tăm tối,vì quý Thầy đã trang bị được cho mình một Chánh Kiến , một Chánh Tư Duy và dĩ nhiên đã Trạch Pháp và viên dung Sự, Lý! 

Con mạo muội kính dâng HT Tuệ Sỹ cùng Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng quý Cư Sĩ Trí Thức 

trong Hội Đồng Hoằng Pháp vài ý thơ với chân tình của người viết : 

 

Kính ngưỡng Ngài Cố Vấn Chỉ Đạo Hội Đồng Hoằng  Pháp 

Hậu bối trộm nghĩ rằng :Người có trí phải biết tự bảo vệ mình

Tránh  xa  nơi nguy hiểm ...tìm một điểm tựa tâm linh 

Thấy, nghe,  hiểu biết nhưng không nhiễm,  không dính mắc ! 



Hạnh phúc thay .... lời chỉ dạy trình bày thật tâm đắc ! 

 Rỡ ràng giá trị, hương vị đời sống  tu hành.

Thể hiện  Bi Trí Dũng.... bậc chánh nhân thành toàn 

Kính đảnh lễ và tôn vinh Ngài ...Danh Tăng Uyên Bác! 

Đức Độ Vị Tha ...cao vời bát ngát !!! 



Kính ngưỡng các ban ngành cùng Ngài Chánh, Phó Thư Ký 

Còn gì vui hơn được tham cứu Giáo Pháp Đức Bổn Sư 

Từ những Trưởng tử Như Lai nhuần thấm được Chân Như 

Truyền  trao kinh nghiệm ....liễu  sinh thoát tử  ! 



Nguyện  tin quả quyết, không thối chuyển trong mọi hành xứ 

Kính xin truyền bá rộng rãi đến bạn đồng môn 

Cùng  chí hướng...Chỉ Quán miên mật bặt ngữ ngôn 

Tứ trọng Ân ...Ân quý Ngài luôn ghi  nhận 

Chắp tay cung kính ...lãnh thọ phước điền trao tặng ! 




Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát 

Huệ Hương 

Melbourne 28/7 /2021 




 

facebook-1



***
youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43956)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4514)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4432)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4364)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6476)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4767)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4181)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25687)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24479)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21624)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]