Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lý Nhân Quả

23/07/202011:49(Xem: 3105)
Lý Nhân Quả
duc the ton 2a
Lý Nhân Quả
Trần Thị Nhật Hưng
 

   Giáo lý của Đức Phật rất cao siêu thâm thúy, nhưng người học có số hiểu giống nhau, có số hiểu khác nhau. Và thực hành thì mỗi người áp dụng càng khác nhau nữa, cố sao theo cái hiểu của mình để tâm an lạc.

 

   Riêng tôi, tôi cũng hiểu và áp dụng theo cách riêng của tôi. Và trong đạo Phật, Lý Nhân Quả  tôi đặt làm trọng tâm tin tưởng tuyệt đối xem như kim chỉ nam hướng dẫn tôi suốt cuộc đời.

 

   Tôi không rõ lắm từ lúc nào, lý nhân quả đã thấm nhuần vào tâm trí tôi. Cũng có thể bắt nguồn từ khi tôi còn bé lúc tôi được mẹ và các chị đưa tôi vào sinh hoạt ngành Oanh vũ, ngành dành cho thiếu nhi từ 6 đến 12 tuổi của Gia Đình Phật Tử.

 

   Lý nhân quả thấm đượm hồn tôi rất sâu sắc từ bé đến bây giờ.

 

   Trải qua nhiều nỗi thăng trầm trong cuộc sống, nhất là từ cuộc bể dâu 1975, những trải nghiệm của đời càng cho tôi nhận rõ để tin tưởng một cách tuyệt đối lý nhân quả của đạo Phật.

   

    Hồi nhỏ lúc sáu, bảy tuổi, tôi hiểu nhân quả một cách đơn giản theo tâm hồn trẻ thơ. Chăm ngoan thì được thầy, cô giáo, cha mẹ yêu thương. Ngược lại, làm biếng hỗn hào thì ai ai cũng ghét.

    Có đứa bạn trang lứa, tuy nhỏ nhưng khôn trước tuổi, ranh có tiếng, chúng bạn thường gán cho nó danh hiệu "bà cụ non". Nó thường "dạy" tôi: "Mình mà nói dối cãi cọ, khi chết xuống âm phủ bị cắt lưỡi. Đánh lộn diêm vương bỏ vào chảo dầu chiên dòn mình lên cho chân tay cứng ngắc hết còn đánh nhau. Ăn uống vung vãi phí phạm xuống âm phủ bị ăn giòi, vì mỗi hạt cơm rơi đều biến thành con giòi..v.v..và..v.v.."

   Nó...thuyết giảng vậy, tôi tin ngay, còn vặn vẹo hỏi lại: "Nếu lỡ mình nói dối, đánh lộn rồi thì phải làm sao?". Nó cao giọng: "Thì phải ăn năn sám hối trước bàn Phật". Nó còn triết lý: "Đồ tể bỏ dao cũng thành Phật mờ!". Không biết nó học, nó nghe từ đâu mà ăn nói đúng như...bà cụ non! Nó còn giải thích thêm: "Kẻ làm lỗi biết sửa lỗi thì không có tội". 

   Nó...dạy lơ mơ vậy mà rất hiệu quả trong tôi. Rõ là "học thầy không tày học bạn". Từ đó, tôi phân vân thắc mắc, suy nghĩ mãi những việc mình làm đã qua. Tôi thường tự hỏi: "Mình đã xạo với ai chưa nhỉ?". Có. Con nhỏ bạn trong lớp xin tôi kẹo, tôi không muốn cho, nên dối nó, hết rồi. Ham la cà lêu lỏng, bố mẹ hỏi học bài chưa, lại nói dối, học rồi. Còn thằng bạn hàng xóm mới tháng qua, tôi đang chơi cò cò, nó cứ đá banh nhắm hướng tôi đá tới, tôi nổi giận cũng vừa cho nó một trận, đè nó xuống hỏi tội, chịu thua chưa, nếu má nó không ra can thiệp, chắc nó bẹp dí dưới thân hình...bé bự của tôi. Trời ơi, tội lỗi, đầy tội lỗi. Thế là tôi âm thầm lén đợi không ai để ý, đến chắp tay trước bàn Phật cầu khấn. Vừa khấn vừa đấm vô ngực thình thịch: "Lạy Phật, con là kẻ có tội, con là kẻ có tội. Con xin Phật tha lỗi. Từ nay con xin chừa, con không dám nữa." Khấn như vậy chưa đủ, tôi còn khẩn cầu: "Nếu sau này con chết, kính mong Phật đừng quên rước con lên thiên đàng!“ Khấn xong, tôi kính cẩn chắp tay cúi đầu lạy Phật và còn làm dấu thánh giá nữa: „Dâng cha, và con, và thánh, thần, a men“. Hồi nhỏ, cũng vì hoàn cảnh đặc biệt nào đó, không hiểu sao cha mẹ cho tôi học trường dòng. Nhà trường có thói quen tụng kinh và làm dấu mỗi khi vào lớp. Cũng chính vì thế, tập khí đã khiến tôi về nhà thỉnh thoảng cứ làm dấu và hở chút lại “a men“, cha mẹ phải cho tôi gia nhập Gia Đình Phật Tử, sinh hoạt cuối tuần để giữ đạo.

   Từ hôm xin lỗi Phật xong, tôi nguyện sống nghiêm chỉnh, thánh thiện của một đứa bé ngoan. Rồi với thời gian, nếp sống ngoan đã giúp tôi quen dần với sự thật thà đến quê mùa chất phác. Có những sự thật nên tế nhị, tôi trắng trợn phũ phàng thậm chí cục súc thô bỉ. Tôi hồn nhiên ngây ngô như nai vàng ngơ ngác, thấy sao nói vậy, nghĩ gì nói ra, lắm khi vô tình giết niềm hy vọng của người khác không một chút ngại ngùng đắn đo.

   Tôi quen một anh bạn nổi tiếng mượn đồ, nhất là tiền bạc hay...quên trả. Một lần gặp tôi ngoài phố, sau vài câu chào xã giao, anh hỏi:

- Có mang tiền không, Ty?

   Tôi biết anh hỏi để mượn, thay vì nói “không” cho xong chuyện, tôi gật đầu “có” vì rõ ràng trong ví tôi có tiền. Rồi sực nhớ cố tật của anh, không đợi anh lên tiếng hỏi, tôi ngập ngừng tiếp:

-    Nhưng mà,…nhưng mà…(tôi hạ giọng)…không cho mượn!

    Tôi thường bị gia đình chỉ trích về cái tật ruột để ngoài da dễ làm mếch lòng người và khuyên tôi nên thật thà trong văn hóa một chút. Tôi cãi chày, cãi cối, sự thật mếch lòng người nhưng mà thuốc đắng mới giã được tật. Thà tôi chấp nhận sự quê mùa chứ không chịu được điều dối trá. Làm sao tôi có thể nói, tôi cũng yêu anh, để anh được ấm lòng khi lòng tôi lạnh giá?!

   Vậy, để giảm bớt sự thô cứng của sự thật thà, tôi đã tập uốn lưỡi…tám lần trước khi nói. Và tôi đã thích thú nhận thấy mình tiến bộ, đã biết khéo léo trả lời câu hỏi của chị bạn:

-    Ty à, mình mới đi thẫm mỹ sửa mắt, sửa mũi về, Ty thấy đẹp không,Ty?

  Tôi nhìn kỹ chị bạn, thấy không hợp nhãn chút nào. Sau khi sửa, mắt thì như trợn trừng, hung dữ nữa. Mũi cao nghều cứng đơ. Nhưng nghe chị hỏi, sực nhớ lời người nhà dạy “phải thật thà trong văn hóa”, tôi ngập ngừng uốn lưỡi đến…chín lần, đáp:

-    Ơ…ơ…,không dám trả lời đâu. Nói thật, sợ chị buồn lòng. Nói dối, tôi không quen!

  Rồi tôi đứng trơ ra, giương mắt nhìn chị, không nói nữa.

Tôi về nhà…khoe công trạng

của mình, liền bị cả nhà mắng:

-Trả lời vậy như chửi bố người ta!

   Sự thật thà dù thấy quê mùa, nhưng tôi chiêm nghiệm trong cuộc sống vẫn mang lại lợi lạc và niềm tin cho người hơn là dối trá.

   Rồi tôi lớn lên, sự hiểu biết về nhân quả cũng rộng ra dựa theo sách vở cũng như chứng kiến những sự việc xảy ra trong cuộc sống.

   Có lần học sử về giai đoạn chuyển tiếp giữa triều đại nhà Lê sang nhà Lý, mặc dù trong bài, thầy, cô không ai nói hay giảng về nhân quả, nhưng những sự kiện xảy ra, tôi đã cảm nhận nhân quả hàm chứa trong bài học đó.

   Một Lê Long Đỉnh ác độc, ham mê tửu sắc, hoang dâm vô đạo nổi tiếng trong lịch sử nước Việt đến nổi nằm liệt khi ra triều, người đời bấy giờ gán cho danh hiệu “Lê Ngọa Triều”, từng giết vua, vốn là anh ruột mình để đoạt ngôi, cai trị nhân dân một cách tàn độc, đưa ra những cách trừng trị và giết người một cách dã man như róc mía trên đầu nhà sư, lấy rơm quấn vào người tội nhân rồi châm lửa đốt, có khi bắt họ leo cây rồi bên dưới cho người chặt gốc…v.v.và.v.v…đã khiến cho cả triều đình và nhân dân căm thù, chán ghét, chờ cơ hội Lê Long Đỉnh băng hà lúc đó mới 24 tuổi mở đường cho Lý Công Uẩn lên ngôi, một người tài đức vẹn toàn, vốn được thấm nhuần đạo hạnh từ bi và trí tuệ của giáo lý Phật Đà dưới sự dẫn dắt và đào tạo của thiền sư Vạn Hạnh.

   Với chính sách nhân bản, Lý Công Uẩn lãnh đạo đất nước đã đưa triều đại nhà Lý vào một thời hoàng kim và toàn dân bấy giờ được sống an lành, ấm no, hạnh phúc.

   Những bài học như thế thấm nhuần trong tôi lý nhân quả của đạo Phật: Làm điều tốt, sống tốt, sẽ có kết quả tốt. 

   Nhưng đó là chuyện của thời xa xưa, trong sách vở. Chỉ đọc, học, nghe mà chưa thấy cũng đã cho tôi tin về nhân quả huống chi chính những sự kiện đương thời xảy ra nhan nhãn trong cuộc sống càng cho tôi niềm tin vững chắc về luật nhân quả hơn.

-    Một bà bán cháo vịt mỗi ngày khứa cổ đến mười con vịt, năm này qua năm khác, ở tuổi trung niên, bà bỗng phát ra bịnh tràng nhạc phải đưa cổ cho bác sĩ…khứa (giải phẫu) hai lần.

-    Một bà mẹ cắt đôi mình ếch hết tháng này đến tháng kia lấy hai đùi ếch cho con ăn trị bịnh còi. Đến lúc chồng tai nạn xe, bánh xe hơi cắt ngang xẹp lép bọng đái người chồng, chia hai khúc mình và chân chìa ra như hai đùi ếch, người vợ mới thức tỉnh hành động mình làm. Từ đó, mỗi khi nhìn thấy món “vũ nữ chân dài” (món đùi ếch) bà rùng mình kinh sợ.

-    Hai vợ chồng nọ sinh sống bằng nghề đá gà, hằng ngày nhìn hai con gà đá nát mặt nhau không một chút xót thương. Sau đó cậu con trai tông xe Honda do say rượu, mình mẫy không sây sát, chỉ khuôn mặt nát bấy phải giải phẫu và chỉnh hình.

-    Gia đình kia làm nghề đánh bắt, kéo lưới hằng tấn cá, hằng năm giết chết bao sinh linh cá. Con gái bị ung thư, trong giờ hấp hối, miệng ngáp ngáp như con cá mắc cạn.

-    Nàng dâu kia hỗn hào, thiếu giáo dục. Đã không biết tri ân mẹ chồng nuôi dưỡng chồng mình để mình hưởng phú quí; vì vô minh, thiếu hiểu biết và đố kỵ, chẳng những mắng chửi mẹ chồng không tiếc lời còn nguyền rủa một cách thậm tệ, để rồi vướng ung thư tuyến nước bọt đau đớn vô vàn với xạ trị khiến mặt đen xì như mặt Bao Công,  sưng vù như cái mâm, đốt cháy cuốn họng lở loét, bỏng rát đau xót không ăn, không uống và không nói được, như thế vẫn chưa đủ còn bị méo miệng tốn phí không biết bao nhiêu tiền bạc để chỉnh hình.

   Tất cả sự việc trên giải thích sao đây, nếu không là nhân quả trong cái nhìn của con nhà Phật. Nhân quả nhãn tiền mà còn là nhân quả dị thời nữa.

   Còn nhiều lắm, kể sao cho hết. Nhưng nhân quả không chỉ có hiện báo, mà còn sanh báo và hậu báo. Nó đến từ nhiều kiếp nhiều đời liên quan với nhau như những móc xích kết nối thành chu vi một vòng tròn qua hình thức cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, bạn bè…như lời Phật nói:

- Người vợ ở kiếp này là người bạn chôn kiếp trước, tới trả ơn cho bạn.

- Đứa con trai hay con rể ở kiếp này cũng thế, là chủ nợ của bạn ở kiếp trước, tới để đòi món nợ chưa trả.

- Đứa con gái ở kiếp này, là người tình của kiếp trước, tới vì tình cảm chưa dứt.

-…v.v..và.. v.v…

   Và tôi xin kể câu chuyện sau đây để cùng chiêm nghiệm lời Phật nói.

   Chỉ với thời gian ngắn từ sau 1975, vợ chồng ông Bình, một viên chức cao cấp của chế độ cộng sản Việt Nam tậu được ba căn biệt thự lớn: Một cho ông bà, một cho vợ chồng cô Thúy - cô con gái duy nhất của ông bà - và một căn cho thuê. Chưa kể vài miếng đất để dành làm vốn.

   Sự giàu có không ai rõ đến từ  ngõ ngách nào. Chỉ biết là trong xã hội Việt Nam hiện nay “hễ có quyền là có tiền!”

   Việc ông làm giàu, lương thiện hay bất chính, không ai rõ. Chỉ biết rằng vợ chồng ông giàu lắm nhưng chỉ có một mụn con gái duy nhất mà ông bà thương yêu nuông chìu hết mực. Nhất là ông. Ông cưng cô con gái như nưng trứng hứng hoa, lúc nào cũng buông ra những lời thân thương trìu mến “con gái rượu của bố” làm cô con gái vốn hay nhõng nhẽo càng nhõng nhẽo hơn.

   Khi cô Thúy lập gia đình, ngoài của hồi môn chìm, còn có một căn biệt thự.

   Còn cậu con rể, vốn xuất thân nhà nghèo, nhưng khá đẹp trai, thông minh lanh lợi, học giỏi. Cậu bắt kịp nhanh thời thượng nên may mắn lọt vào mắt…đen của cô Thúy, con ông bà Bình.

   Cậu chụp lấy cơ hội dựa vào chức quyền của bố vợ để làm giàu. Tiếc là, lòng tham của con người không đáy, đi đêm có ngày gặp ma. Đang làm ăn thăng tiến, cậu sa đà đổ đốn ăn chơi, cờ bạc rượu chè, gái giếc, lao vào những công việc làm ăn bất chính, bị phá sản, sa vào pháp luật. Căn biệt thự của vợ bị tịch biên, vài miếng đất và căn cho thuê của bố vợ bán đi vẫn không đủ trang trải để cứu vãn tình thế đang đà xuống dốc một cách thảm hại của cậu.

  Cô Thúy luôn về khóc với cha mẹ:

-    Xin bố mẹ cứu chồng con. Hễ ảnh mệnh hệ gì là con tự tử. Con không sống được nếu thiếu ảnh.

-    Nó đổ đốn như thế, con còn thương tiếc gì chứ?

-    Con cũng không hiểu nữa. Có thể đây là ân tình từ kiếp nào đó mà con phải trả. Con chỉ thương mỗi mình ảnh thôi.

Ông Bình thở dài:

-    Còn bố, bố không vay nó, sao bắt bố trả chứ?

-    Bố ơi, xin bố thương con mà cứu ảnh. Có lẽ kiếp trước bố vay ảnh, nên kiếp này ảnh đến đòi chăng?!

 Bà Bình lấy khăn dặm nước mắt:

-    Bố mẹ chỉ có mình con. Không thương con thì thương ai. Thôi, để bố mẹ bán nốt căn nhà này vậy để chạy chọt thử xem.

Ông Bình cũng rươm rướm nước mắt:

-    Đúng là số kiếp của gia đình ta. Nếu không nợ lẫn nhau, làm sao có nhân duyên gặp gỡ?!

 

   Kính thưa bạn đọc, tôi xin mạn phép kết thúc bài viết tại đây.

  Qua những điều chứng kiến cùng trải nghiệm bản thân, đã cho tôi niềm tin tuyệt đối vào lý nhân quả của đạo Phật.

   Những nghịch cảnh, những mất mát, những “thú đau thương” trước sự ức hiếp của đời và số phận, theo tôi, nếu không tạo tác kiếp này, tôi nghĩ, chắc chắn phải gây ra từ bao đời trước để chịu nhân quả. Đó là câu hỏi lý do tại sao, lắm người hiền lương luôn gặp điều bất hạnh và ngược lại, kẻ gian ác được hưởng phú quí giàu sang. Nhân quả luân hồi là vậy đó, không chừa một ai, dù người đó là thánh nhân hay ngay cả Đức Phật.

    Một trong mười điều tâm niệm    Đức Phật dạy “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch coi như nhân quả chưa trả”. Nếu hiểu như thế sẽ tự an ủi dỗ dành xoa dịu được nỗi đau khi đối đầu với nghịch cảnh. Và nghịch cảnh đôi khi còn là cơ hội để thay đổi vận mệnh, thực hiện hạnh nhẫn nhục, là những thử thách rèn luyện ý chí con người trưởng thành. Nếu đối đầu không chuyển hóa được nghịch duyên thành thuận duyên, chỉ còn cách chấp nhận vượt lên những thứ làm mình tổn thương, thành tâm sám hối để giải nghiệp, bình thản trả nghiệp coi như nhân quả đang xả!

   Rồi từ đó, mọi điều cũng sẽ qua. Những vết sẹo trong đời, nếu có,  là chứng tích cho mình tự hào thừa nghị lực ý chí vượt qua mọi thử thách, để rồi, sau cơn mưa trời lại sáng, sau màn đêm tăm tối là ánh sáng của bình minh, cho đến một lúc nào đó tin rằng, đã “tính sổ” xong những nhân quả của bao đời, và không “vay” tiếp, sẽ cho mình tìm thấy niềm vui, an nhiên tự tại, vững chãi vượt qua những chông gai trong cuộc sống vốn luôn khổ đau này.

   Lúc đó đôi khi, còn cám ơn những nghịch cảnh và những người làm mình tổn thương vì chính điều đó giúp mình trả quả.

 

Trần Thị Nhật Hưng

 

 

 

 

 

   

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7673)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8558)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7365)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6232)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7165)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5358)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4033)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8807)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23410)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4716)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]