Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gánh Hàng Rong Của Mẹ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm)

12/07/202017:19(Xem: 8387)
Gánh Hàng Rong Của Mẹ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm)
 ganh hang rong

Gánh Hàng Rong Của Mẹ
Truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm
Diễn đọc: Phật tử Tường Dinh


 

Mẹ từ giã cõi đời vào những ngày cuối năm biến không khí đón tết vui tươi giờ đây càng thêm lặng lẽ. Nhìn Cha già ngồi niệm Phật, cúng lễ phẩm mỗi ngày 3 lần cho Mẹ, trông ra phía trước sân những chậu vạn thọ hoa đã nở tròn, khiến tôi càng thấy buồn và nhớ Mẹ nhiều hơn.

Tôi ngồi xem mấy món đồ Mẹ để lại được đựng trong chiếc hộp gỗ đã bạc màu, lòng tôi cảm xúc dâng trào khi nhìn thấy xâu chuỗi bằng hạt bồ đề tự tay tôi làm và những lá thư tôi viết gởi về thăm Mẹ cũng như những bài thơ võ vẽ tập làm từ tuổi ấu thơ. Những bài thơ từ khi tôi viết đến khi Mẹ qua đời đã gần hai mươi năm, tưởng chừng đã hư mất thuở nào nhưng được Mẹ gói trong mấy lớp bao ni lông thì giờ đây cũng đã ố vàng. Đây là rất ít số bài thơ còn sót lại trong thời tuổi thơ của tôi.

Cảm xúc nhớ Mẹ dâng trào theo từng câu chữ, những kỷ niệm thuở ấu thơ bên Mẹ hiền đầm ấm, hồn nhiên, hạnh phúc biết bao. Đặc biệt, “Đôi Gánh trên vai Mẹ” là một trong những hình ảnh thiêng liêng của cuộc đời và là nguồn động lực vô cùng lớn lao cho tôi theo từng thời gian của dòng đời sanh diệt và ngay lúc ấy. Tuổi thơ hồn nhiên đang cuộn chảy trong tôi:

Mẹ ơi, mang đôi dép này vào đi cho đỡ nóng chân!

Không mang được đâu Con,

Nhưng Mẹ mang đi, Mẹ!

Ờ, ờ để Mẹ mang!


An năn nỉ Mẹ mang đôi dép mà cậu đã dành tiền lì xì Tết vừa qua. Nhóc năn nỉ Chị mua giùm làm quà đầu năm cho Mẹ.

Trong những tháng năm đầu tiên, gia đình từ miền Trung vào Nam sinh sống, Cha Mẹ từng bước gầy dựng lại sự nghiệp với hai bàn tay trắng. Cảnh đời, nghiệp vận của quê hương cùng với con người làm cho người ta thắt quặng nỗi lòng khi nghĩ về những chuỗi ngày đầy đau thương và nước mắt đó. Bao nhiêu tang thương của dòng họ, quê hương, những đồng tiền dành dụm từ quê đem vào chỉ đủ xoay sở trong thời gian ngắn. Cha tôi bươn chải khắp nơi, làm đủ thứ công việc nặng nhọc và làm việc quá nhiều đến độ ngã bệnh nặng liên tục trong mấy năm liền.

Lúc ấy, một mình Mẹ phải lo toan vất vả trăm điều, những chiếc áo dài Mẹ thích từ thời con gái cũng đành đổi gạo nuôi con. Giữa miền đất lạ, Mẹ dùng sức lực, đôi vai quang gánh tảo tần nuôi dạy đàn con dại. Có khi bình minh chưa ló dạng, con còn đang trong giấc ngủ say mèm, Mẹ đã thức dậy chuẩn bị quảy gánh ra đi cùng với tiếng rao giờ đây nhớ lại quặn thắt cả nỗi lòng:

Mờ sáng tinh sương

Mẹ quảy gánh cùng nắng sương gió tuyết

Đôi quang gánh tựa hai vầng nhật nguyệt

Mỗi bước chân như chan chứa ân tình

Cây cối lặng mình trong thổn thức

Mắt con từng giọt lệ rưng rưng

 

Nhà tôi cách chợ và trường học cũng khoảng gần 3 cây số, phải đi qua con đường toàn là đất cát mịn, mùa nắng thì cát lún đến mắt cá chân, mang dép thì cát lọt vào chân, khó đi lắm. Mùa mưa thì nước đổ về, có khi ngập đến nửa người, làm cho những người dân qua đây thật khổ sở.

Thời thơ ấu, mỗi lần Mẹ quảy gánh ra khỏi nhà, bao nhiều sầu lo như đang đè nặng tim con, nỗi lo cảm giác như theo từng bước chân và đôi vai của Mẹ. Mỗi lần chiều về, ánh nắng đã ngã sau lưng nhà là con bắt đầu trông đợi Mẹ. Trông Mẹ về được đến nhà bình an.

Buổi sáng có khi gánh bánh bèo, có khi bánh đúc, buổi trưa xế chiều đôi khi là những gánh rau từ vườn. Qua từng con đường nhỏ, qua từng thôn xóm, với đôi gánh trên vai như gánh tất cả những nhọc nhằn nuôi con khôn lớn!

Trong đôi mắt trẻ thơ của tôi lúc đó, con đường làng không có gì là thân thương cả, vì Mẹ tôi quá khổ nhọc mỗi ngày qua con đường này. Có lần học câu chuyện Tấm Cám, có Ông Bụt hiện ra, cô giáo hỏi học trò mấy em ước điều gì khi gặp Ông Bụt. Bạn cùng lớp mỗi đứa một kiểu, còn tôi nói ngay không cần suy nghĩ: “Con xin Ông Bụt làm cho con đường được đẹp để Mẹ con khỏi bị nóng chân, ngập nước”.

Hạt mưa ơi xin dừng cơn đổ xuống

Để Mẹ hiền đỡ gánh nặng chiều nay

Xin gió ngừng cho bụi đất khỏi bay

Để mắt Mẹ khỏi mờ vì cát trắng

Mây ơi mây đến che giùm cơn nắng

Vì Mẹ tôi trĩu nặng gánh trưa hè.

 

Những ngày hè nóng, cát ở con đường càng nóng dữ dội, đi chân không thật khó chịu nỗi, lúc nhỏ mỗi khi đi qua con đường này, ai cũng cố gắng nhanh chân chạy từng đoạn, tìm bụi cỏ hay vật gì rồi đứng tạm lên cho chân đỡ nóng. Ấy thế, Mẹ vẫn phải chịu từng bước chân chân trong cát dưới trời nóng. Có hôm, Mẹ về đến nhà, mồ hôi ướt đẫm, gương mặt mệt nhoài. Tối đến, mùa hè thì bàn chân bị bong từng vết bỏng của nắng cát, Mẹ chịu cơn đau bằng cách thoa mấy lá bù ngót ở sau vườn.

Mùa mưa đến với nỗi khổ khác, nước từ thượng nguồn đổ về, con đường giờ đây như một đồng nước mênh mông. Mẹ thấp người, có hôm phải ráng gồng gánh đi trong mưa, có hôm Mẹ bị nước cuốn trôi trên đồng ruộng, gắng gượng lắm mới được an toàn về đến nhà. Đôi bàn chân Mẹ bị nước ăn lở đỏ, Mẹ đành bấm bụng xoa những vết cổ trầu trên chân trông thật đau lòng. Đôi vai Mẹ gánh đã chai đến nỗi như một vết chàm ngay đòn gánh. Lúc nhỏ nhiều khi ngồi nhìn Mẹ thoa dầu, tự đánh thình thịch vào bả vai vào chân cho đỡ mỏi mà đến giờ đây tôi cũng không cầm được nước mắt.

Chứng kiến Mẹ cơ cực, nhọc nhằn nhưng con Mẹ theo tiếng gọi tâm linh vào chùa xuất gia tu học. Có lần từ chùa về thăm nhà, mặt trời chiều, ra đứng trước sân nhà đợi mẹ cũng giống như lúc còn ở nhà ngày nào. Tôi ra đứng đợi Mẹ, nhìn dáng Mẹ từ xa, ánh nắng chiều cùng với cát bụi khi về đến nhà, thật cảm xúc, thắt chặt nỗi lòng:

Con lớn lên trong cảnh cơ hàn

Bữa cơm nghèo chỉ sắn khoai lót dạ

Thương mẹ già nắng mưa tầm tả

Gánh chợ chiều ướt vã mồ hôi

Có những lúc nắm xôi cái bánh

Vỗ về con chăm chỉ học hành

Đời đói lạnh mẹ điềm nhiên vững dạ

Mặc phong ba sóng cả cuộc đời

 

Nhiều lúc tôi cảm giác rằng, trên con đường làng, hay những ngõ hẻm của vùng này không chỗ nào là không có dấu chân của mẹ, không chỗ nào là không có những giọt mồ hôi của Mẹ tuôn rơi với đôi gánh trên vai. Có lần, Mẹ gánh hàng đi sớm, bị tai nạn, sức khỏe kém nhiều, nhưng vì cuộc sống gia đình, vì con cái mà ráng vực dậy tiếp tục dùng nghị lực và tình thương để phấn đấu nuôi con. Cũng may sau mấy năm sức khỏe Cha tôi dần bình phục, cuộc sống gia đình tạm ổn định, cả gia đình năn nỉ Mẹ nghỉ ngơi. Tuy Mẹ giờ đây không gánh bán kiếm sống như ngày nào, nhưng thỉnh thoảng Mẹ đem gánh ra lau, như nhắc nhở con cháu những tháng ngày cơ cực mà cố gắng vươn lên để sống tốt với đời.

 

Đôi Gánh của Mẹ đã ăn sâu vào tâm khảm, là hình ảnh thiêng liêng trong tôi. Đôi gánh ấy không phải chỉ đưa anh chị em chúng tôi vào đời mà còn là sự kết nối tình thương mầu nhiệm trong ý thức gợi nhớ nguồn cội Tổ Tiên. Mỗi năm ngày Mồng ba Tết, theo tục lệ đưa tiễn Ông Bà, Mẹ năm nào cũng vậy, đã chuẩn bị nhiều thứ thức ăn, gạo muối, trầu cau… vào đôi gánh. Chiều ngày mồng ba sau khi cúng Ông Bà xong, Mẹ gánh đôi gánh đã chuẩn bị sẵn đưa tiễn Ông Bà một đoạn và tiếp sau đó anh chị em trong nhà, chia nhau gánh đưa một đoạn vài trăm mét  rồi mới vô nhà. Lúc còn nhỏ, thấy Mẹ chuẩn bị làm như thế trong nhà ai cũng cười nói dí dỏm chọc Mẹ đủ điều. Nhưng sau khi lớn lên, có lần Mẹ vừa gánh vừa khóc, ký ức của Mẹ đang cuộn chảy về thuở xa xưa nơi có lũy tre làng, có nhà Thờ Tổ Tiên, có hình bóng của Ông Bà cùng những ngày thơ ấu. Lần đầu tiên trong đời khi con chợt nhận ra trên đôi Gánh sao lại chứa chan nhiều ân tình như thế?

Vào Chùa, mùa báo Hiếu đầu tiên, khi tụng kinh Báo Ân Cha Mẹ, Phật dạy "Giả như có người vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi vẫn không thể báo đáp ân sâu của cha mẹ. Giả như có ai, gặp lúc đói khát, hủy thân thể, cung phụng cha mẹ, cũng không báo được ân đức cha mẹ. Trăm kiếp ngàn đời thích tròng con mắt, cắt đến tim gan, dao sắt xuất nhập khắp cả châu thân, cũng không trả nỗi ân đức cha mẹ. Và dẫu cuối cùng, vì cha vì mẹ, lấy thân làm đèn, hiến cúng Như Lai, cũng không báo được hồng ân cha mẹ” Lúc ấy, hình ảnh đôi gánh của Mẹ ngày nào lại hiện lên. Lời kinh cứ vang vọng trong tâm tư, tôi khóc thật nhiều, càng khóc hình ảnh Mẹ càng hiện rõ trong tôi!

Đôi gánh của Mẹ giờ đây cùng con vào chùa, lần đầu tiên khi nhìn thấy Sư Phụ chở trên chiếc xe đạp đủ thứ rau quả, gạo, nước tương về nuôi mấy chú Tiểu. Lòng con cảm thấy tuy không phải đôi gánh của Mẹ ở buổi chợ chiều nơi miền quê, mà giờ đây Thầy mình đang gánh sứ mệnh của Phật pháp, trong đó có cả những bữa cơm hằng ngày và những lời pháp từ Thầy.

Lúc chùa còn nghèo, khó khăn không có tiền mua máy bơm nước. Vườn cây thanh long, tiêu đều phải gánh để tưới. Và mỗi ngày gánh nước tôi cứ hình dung đang cùng với Mẹ đi trong những lúc bán hàng rong, tôi nghêu ngao vài ba câu kinh trong từng bước chân của tuổi thơ như được cùng Mẹ dưới mái chùa quê nghèo thanh đạm.

Từng bước trưởng thành, từ khi ở chùa đến khi ra Hải Ngoại. Hình ảnh Đôi gánh chợ chiều của Mẹ giờ đây càng hiển hiện trong con. Các bậc Ân Sư đã gánh trên đôi vai biết bao trọng trách Phật pháp, đôi gánh ấy cân bằng giữa đời sống phạm hạnh và nhập thế độ sanh. Biết bao khó nhọc, áp lực, thị phi tương tranh nhân ngã đã nặng quằn trên đôi vai của những Bậc Thầy tôn kính.

Khi còn nhỏ, Mẹ dạy tập gánh cũng như tập làm người, phải kiên nhẫn, chịu khó. Lúc đầu cũng có chút khó khăn, nhưng rồi cũng thực hành được. Điều quan trọng là giữ cho gánh được thăng bằng, để đi về phía trước, không va chạm với những chướng ngại vật trên đường. Khi gánh rồi, càng cảm nhận được bao sự nhọc nhằn của Mẹ suốt bao năm qua. Cũng vậy khi từng bước gánh chút ít trách nhiệm với Đạo Pháp, mới thấy được ân đức của các bậc Ân Sư quá to lớn.  Khi gánh trên vai gánh nặng thì thương Mẹ Cha biết dường nào.  Khi gánh chút ít trách nhiệm trong Đạo Pháp càng tôn kính những bậc Thầy Tổ đến muôn phần!

Cuộc sống không bao giờ giống như ta mong muốn, những hoàn cảnh khó khăn và nghịch duyên thử thách là điều luôn có. Nhiều lúc, tôi cũng chán nản, mỏi mệt nhưng hình ảnh Mẹ với đôi vai gầy, gương mặt khắc khổ luôn là động lực để tôi cố gắng bước đi. Ở đời có ân tình nào quý trọng và thiêng liêng hơn ân tình của Cha của Mẹ. Dòng thời gian theo cuộc sống, con người cứ theo cuộc sống của chính mình, có khi những gánh nặng của Mẹ Cha trong suốt cả cuộc đời cơ cực thế mà con cái nào đâu hay biết! Thực tế xã hội đã cho thấy biết bao con cái thành tài đều nhờ bằng những khổ nhọc, đắng cay của Cha Mẹ. Có người đỗ đạt thành danh, có địa vị xã hội… đều có những gánh hàng rong của Mẹ, những đồng tiền đổ mồ hôi trong muôn ngàn công việc nặng nhọc của Cha. Tất cả những gì tốt đẹp của cuộc đời. Ở đời ai cũng từ Mẹ sanh ra từ Cha nuôi lớn, lễ nghĩa học hành được Thầy dạy dỗ… tất cả đều từ sự khổ nhọc ấy mà nên người. Đôi Gánh Hàng Rong như chứa đựng tất cả sự hy sinh, những nguồn yêu thương cao cả thiêng liêng, như một điểm tựa tâm linh huyền diệu và luôn vang vọng mãi trong lòng của tất cả những người con hiếu hạnh!


Tu Viện Từ Ân, Mùa Đông năm 2020

Thích Hạnh Phẩm

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7584)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8484)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7259)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6159)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7057)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5332)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4008)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8662)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23116)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4678)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]