Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bác Sĩ Beckson (Bá Khắc Sum) đã gặp Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp tại núi Kê Túc, Ấn Độ

13/08/201920:04(Xem: 6335)
Bác Sĩ Beckson (Bá Khắc Sum) đã gặp Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp tại núi Kê Túc, Ấn Độ

ke tuc son



Một người từ 2500 năm trước vẫn còn sống chốn nhân gian, bạn có tin không? Nhưng càng kỳ lạ là, cách đây không lâu, một tiến sỹ người Anh tên là Beckson đã gặp tôn giả Ca Diếp trên núi Kê Túc, hơn nữa ông còn vì thế mà đã quy y Phật giáo.

Đó là vào buổi sáng ngày đầu tiên hội nghị hàng năm của Hội nghiên cứu học thuật London vào đầu thế kỷ 20, rất nhiều tiến sỹ nổi tiếng nước Anh nghiên cứu khoa học, triết học, pháp học và thần học đã tấp nập đến trung tâm nghiên cứu, sẵn sàng thuyết trình. Người khiến mọi người chú ý là một vị hòa thượng phương Tây, thân hình cao lớn, mặc bộ tăng y màu vàng, ngoài khoác áo cà sa, tay cầm chiếc bát đen, chân trần, cử chỉ trang trọng, bước về phía tòa nhà tráng lệ của Hội nghiên cứu học thuật.

Một tiến sỹ vừa bước xuống chiếc xe hơi phát hiện ra tình huống này, ông cảm thấy rất quen, liền bước lên mấy bước nhìn kỹ, bất giác buột miệng nói: “Ngài là tiến sỹ Beckson phải không? Đã nhiều năm không gặp! 5 năm trước, sau khi ngài công bố ‘Triết học tân luận’ thì từ đó chúng ta không gặp lại nữa”.

Người có dáng vẻ hòa thượng Ấn Độ nói: “Vâng, tôi là Beckson, ở Ấn Độ mấy năm, đã có được khai mở rất lớn”.

Tiến sỹ Madison nói: “Tốt quá, hôm nay mở hội nghị thường niên giới học thuật, rất nhiều bạn bè cũ cũng tham dự, ông đến gặp mặt mọi người chút đi”.

Thế là hai người bước về phía hội trường.

Hơn 100 nhân sỹ nổi tiếng tham dự hội nghị, toàn là bạn bè của Beckson, bỗng chốc vui mừng náo động cả hội trường.

Tiến sỹ Jim Saporte phấn khích đề nghị: “Không ngờ bỗng nhiên được trùng phùng với tiến sỹ Beckson mất tích nhiều năm nay, nhất là nhìn thấy ông trong trang phục này, dường như đi ngược lại với quan điểm học thuật của ông mấy năm trước. Tôi đoán mọi người nhất định khao khát được biết những đổi thay của ông mấy năm nay, vậy mời ông kể cho chúng ta tình hình sau khi biệt ly”.


Sau 5 năm tiến sỹ Beckson quay trở lại và ông hoàn toàn khác, mọi người đều háo hức muốn biết về những điều ông đã trải qua. 


Mọi người vỗ tay tán thành.

Beckson nói: “Xin cảm ơn quý vị quan tâm. Tôi đến Ấn Độ là với mục đích đi du lịch. Tôi du lãm vào sâu núi Linh Thứu Thánh địa Phật giáo, gặp một cụ già hiền từ. Cụ già nói với tôi: ‘Người Âu Mỹ các ông vô cùng kiêu ngạo tự đại, không coi ai ra gì, tự cho mình là dân tộc thượng đẳng, coi những người phương Đông chúng tôi như dân hạ đẳng chưa được khai hóa văn minh. Thực ra các ông sai rồi, chúng tôi có kho báu tinh thần khai mở trí huệ nhân loại vô hạn. Tôi có thể dẫn ông đến một nơi để ông mở rộng tầm mắt, thì mới biết thế nào là hư giả và chân thực”.

“Tôi theo cụ già băng rừng vượt núi đến một nơi. Lúc mới đến có thể thấy một tia sáng nhạt, đi khoảng 1 dặm, cửa động bỗng rộng mở sáng bừng. Ra khỏi cửa động, giống như đến một thế giới khác, hoa tươi khắp mọi nơi, từng làn hương thơm bay thấu vào trong lồng ngực, khiến cho chúng ta cảm giác tinh thần tâm hồn khoáng đạt vui vẻ. Ở nơi sâu trong rừng rậm, thấp thoáng lộ ra kiến trúc cổ bằng đá cẩm thạch.

Cụ già dẫn tôi đến một nơi cất giữ sách, có mấy gian nhà lớn. Những sách đó có luận thiên văn, địa lý, toán học, có sách suy luận logic, có sách luận Thiên Địa Nhân, tạo hóa vạn vật, có sách luận thần thức sinh diệt biến hóa, linh tính trường tồn bất diệt, nhưng nhiều nhất là thư tịch tôn giáo, đặc biệt Phật giáo là nhiều nhất. Cụ già nói: ‘Nếu ông muốn, có thể sống ở đây một thời gian, mỗi ngày 3 bữa do ta cung cấp, chỉ có điều là đồ chay”.

“Tôi đã ở đó hơn 1 năm, cứ luôn hỏi họ tên cụ, cụ già dù thế nào đi nữa cũng không muốn nói. Đến khi tôi từ biệt, cụ già nói: “Nếu những thư tịch này ông cảm thấy có lợi ích, vậy thì đề nghị ông hãy hết sức thực hành. Rồi ông đến trước Chùa Vàng ở Yangon Myanma tự hứa nguyện, mặc trang phục sa môn, thực hành sa môn hạnh, trở thành đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta sẽ có cơ hội tương ngộ”.


Sau khi chia tay cụ già bí ẩn nói giáo sư đến chùa Vàng ở Yangon Myanma tự hứa nguyện, trở thành đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni.

“Cụ già tiễn tôi xuống lưng chừng núi, tôi cúi người hái một đóa hoa rừng hiếm thấy, khi tôi ngẩng đầu nhìn lên thì cụ già đã biến mất. Tôi kinh ngạc, cụ già đó nhất định là đệ tử Phật giáo có đạo hạnh rất cao thâm. Tôi quay ngược lại đi tìm tịnh xá mà tôi đã ở hơn 1 năm qua, nó cũng biến mất”.

“Thế là tôi đi đến Myanma, đến Chùa Vàng, tôi đi vòng quanh mấy vòng lễ bái xong, tôi quỳ trước tháp, thầm cầu nguyện rằng: ‘Con là Beckson, từ ngày hôm nay con quyết tâm quy y Phật’. Rồi tôi lại đến một ngôi chùa lớn khác ở Yangon, bái một vị trưởng lão làm thầy, xin ông cạo đầu xuống tóc cho tôi, dạy tôi giới luật, học tập thiền định. Khoảng 1 năm tôi lại thọ đại giới Tì kheo. Một hôm, khi tôi nhập định thì thấy cụ già hiền từ đó. Tôi hỏi cụ Pháp hiệu, lúc đó cụ mới bảo tôi rằng, cụ là Tôn giả Ca Diếp, đại đệ tử của Đức Phật”.

“Hôm nay tôi lại trở lại nước Anh, muốn đi các nước châu Âu hoằng dương Phật Pháp. Sau này các vị đừng gọi tôi là tiến sỹ nữa, hãy gọi tôi là tì kheo Beckson”.

Nhất Tâm 

https://dkn.news/van-hoa/thi-ra-con-co-nguoi-tu-2500-nam-truoc-van-song-den-ngay-nay.html



***

facebook

youtube
 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43842)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4409)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4358)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4272)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6383)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4671)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4093)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25216)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24170)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21282)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]