Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Án "Phật Là Cơm"

05/10/201911:05(Xem: 5732)
Công Án "Phật Là Cơm"
buddha_lotus2
Công Án "Phật Là Cơm"


Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng:

-Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng.

            Hòa thượng đáp:

- Phật là cơm.

            Ba ngày sau ông tăng đến gặp hòa thượng, thưa:

-Con không hiểu gì cả.

            Hòa thượng nói:

-Về suy nghĩ thêm ba ngày.

            Ba ngày sau vị tăng đến bạch hòa thượng:

-Con vẫn chưa hiểu.

            Hòa thượng nói:

-Suy nghĩ thêm ba ngày nữa.

            Ba ngày sau vị tăng đến gặp hòa thượng. Hòa thượng hỏi:

-Đã ăn cơm chưa?

            Vị tăng đáp:

-Ăn rồi.

-Giờ cơm ở đâu?

-Cơm ở trong bụng.

-Cơm giờ biến thành gì?

-Thành dưỡng trấp nuôi cơ thể.

-Còn thấy cơm nữa không?

-Dạ không.

            Nghe trả lời thế, hòa thượng nói:

-Còn hỏi nữa ta đánh ba mươi hèo.

Nói xong đạp vị tăng té lăn cù. Ngay lúc đó vị tăng đại ngộ.

Kiến giải của người viết:

  Vị tăng đại ngộ cái gì đây?

- Nếu chúng ta nói, “Phật là vị đại giác ngộ” thì Phật chỉ là ngôn từ và chúng ta không biết Phật giác ngộ như thế nào.

-Nếu chúng ta nói, “Phật là người có 32 tướng tốt” thì cũng giống như đi xem thi sắc đẹp, chỉ thấy hình tướng bên ngoài mà chẳng thấy sâu thẳm bên trong của con người đó.

-Nếu ta chiêm ngưỡng tượng Phật để hình dung ra Phật thì đó chỉ là ông Phật bằng ngọc, vàng, đồng hay gỗ, đá. Đó là “ông Phật chết”.

-Nếu chúng ta nghe kinh Phật để hiểu Phật thì Phật cũng chỉ là âm thanh. Nhiều khi đọc tụng như một cái máy rốt cuộc “đâu vẫn hoàn đó”. Rồi chúng ta muôn đời vẫn chỉ là chúng sinh ngụp lặn trong sinh-tử luân hồi.

Trụ vào những thứ đó thì Phật vẫn là Phật, ta vẫn là ta. Còn nếu “Phật là cơm” thì khi “chưa ăn cơm” tức chưa giác ngộ thì Phật là Phật, ta là ta. Còn khi đã “ăn cơm” tức Phật đã vào trong ta thì ông Phật này biến thành sức sống của cơ thể, nuôi sống thân ta, tâm trí ta. Rồi bao nhiêu cặn bã, uế trược, phiền não được tống ra ngoài.

Thiền tông hay các thiền sư thuở xưa không dừng ở chỗ thờ Phật hay tán dương Phật mà tìm cách biến mình thành Phật. Thiền tông hay các thiền sư không chỉ tán thán (ca ngợi) Phật mà giác ngộ rồi hành Thiền để hưởng ngay chỗ chứng đắc của chư Phật là an nhiên, tự tại, không vướng mắc.

Thiền tông hay các thiền sư không cầu xin Phật cứu độ mà tự độ. Tự độ, tự giải thoát là yếu chỉ và sức mạnh của Thiền Tông.

Do đó có thể nói Thiền Tông thật ghê gớm, thật đáng nể và đáng sợ. Chúng ta chớ coi thường Thiền và đùa rỡn với Thiền. Qua nghiền ngẫm các công án, Thiền là một tông phái khiến Phật Giáo trở nên sống động, khiến Đạo Phật không phải chỉ là tôn giáo đầy lễ nghi, tụng đọc, cầu nguyện, van xin như các tôn giáo khác. Chỉ trụ ở những thứ này thì tín đồ và ngay cả tu sĩ sẽ trở nên ù lì, luẩn quẩn trong tham dục và sinh tử luân hồi, rồi chờ giáo chủ cứu rỗi khi chết. Tôn chỉ của Thiền Tông là “tự thắp đuốc lên mà đi” để được như Phật.

Ở Thiền Tông, phải ngộ trước rồi mới tu. Chưa giác ngộ mà nói tu Thiền là hỏng, giống như người mượn áo của vua mặc vào nhưng không phải là vua, tức không phải Thiền sư. Nhưng nói ngộ là ngộ cái gì? Là chợt thấy trong một phút giây tuyệt vời hay tuyệt vọng nào đó “Phật tánh” hay “chân lý Phật” hiển lộ ngay trong tâm trí mình. Người nào chỉ nghe nói, hay nghe giảng thuyết về Phật tánh mà không trực giác thấy Phật tánh ở ngay trong con người mình thì tu pháp môn gì cũng hỏng chứ đừng nói tu Thiền. Người tu mà chưa thấy Phật tánh hiển lộ một cách sống động, như máu tuần hoàn trong cơ thể, như hơi thở, như mạch sống trong tâm mình… mà tu… thì cũng giống như người đi đào vàng mà không nhìn thấy quặng vàng ở dưới đất, sẽ uổng công vô ích. Chính vì thế mà các Thiền sư cầu đạo dù bị Tổ đập cho mấy hèo, đạp cho mấy đạp, bẹo mũi, la hét vào mặt hoặc nói thẳng “đồ vô dụng”…mà bỗng cười lên ha hả vì nhờ đó hốt nhiên đại ngộ.

Nghiền ngẫm công án là cửa ngõ để bước vào Thiền. Trong Thiền Luận của Đại Sư Suzuki (bản dịch của Tuệ Sĩ), “Không có công án, ý thức Thiền mất điềm chỉ viên (người hướng dẫn) và sẽ không bao giờ có trạng thái chứng ngộ.”  

Muốn biết sự sống động của Đạo Phật, sự dõng mãnh tuyệt vời, sự quyết liệt, gian khổ của các Thiền sư, xin xem thêm công án ‘Phật là ba cân gai” của Động Sơn. Rồi giai thoại, có một ông tăng hỏi Nam Viện, “Thế nào là Phật?” Sư bèn hỏi lại, “Cái gì không là Phật?”. Rồi một lần khác sư lại đáp, “Tôi không quen ông ta.” Rồi một lần khác lại nói, “Chờ lúc nào có Phật tôi sẽ nói cho nghe.”

Rồi thủ đoạn quyền nghi của Mã Tổ chưa thuyết pháp (thượng tòa) mà đã nói thuyết pháp xong (hạ tòa) để dạy đệ tử hình ảnh sống động, hiện ra trước mắt của “Sắc tức thị Không”. Mà nhìn thấy “Sắc tức thị Không”. (chứ không phải đọc tụng, hay nói suông) tức đã chứng đắc trí tuệ Bát Nhã.

Trong Thiên Chúa Giáo không có chuyện tu để trở thành Chúa.

Trong Hồi Giáo không có chuyện tu để trở thành đấng Allah

Trong Ấn Giáo không có chuyện tu để trở thành Thượng Đế (Brahma)

Chỉ trong Phật Giáo mới có chuyện bất cứ ai cũng có thể trở thành Phật. Cho nên Phật dạy rằng có “Hằng Hà sa số chư Phật” và “Ta là Phật đã thành. Chúng sinh là Phật sẽ thành.” Do đó tôi tin chắc rằng từ sơ tổ như Ca Diếp, Mã Minh…xuống tới Lục Tổ Huệ Năng và rất nhiều Thiền sư lừng danh của Trung Hoa và cả đức Vua Trần Nhân Tông của Việt Nam…đều đã thành Phật. Xin đảnh lễ các Thiền sư.


Thiện Quả Đào Văn Bình

(Viết ở Toronto, Canada nhân qua chịu tang người chị ruột vừa qua đời ngày 17/9/2019)

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7783)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8666)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7472)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6351)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 7286)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5440)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 4090)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8968)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 23567)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4792)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]