Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện Chùa Chiền

05/07/201909:19(Xem: 2913)
Chuyện Chùa Chiền
mai chua
Chuyện Chùa Chiền
Trần Thị Nhật Hưng

  Có lần một sư cô thuyết giảng, ví von nhà chùa như một nhà thương trị bịnh tinh thần, điều này ngẫm nghĩ không hoàn toàn đúng nhưng không hẳn là sai, tùy cái nhìn của mỗi người thôi. Bởi vì cũng có nhiều người đến chùa với tâm thái bình an, muốn nghiên cứu học hỏi giáo lý nhà Phật. Hay mộ đạo, đến để hỗ trợ đạo. Cũng có người như các cụ già thích đến chùa vì thích không khí nhà chùa, làm công quả đóng góp công sức, tịnh tài, tìm khoây khỏa trong tuổi già mong qui tiên được về cõi Phật. Kẻ thì đến chùa để cầu an, cầu siêu, cầu xin đủ thứ...v.v.và.v.v...Tựu trung dù từ nhân duyên nào cũng đều là có duyên với Phật

  Riêng tôi, nếu ví nhà chùa như bịnh viện tinh thần, tôi thấy cũng có lý. Vì rõ ràng quí sư đã chẳng nói đạo Phật là đạo cứu khổ ban vui. Do vậy đến chùa quan sát kỹ sẽ thấy, cũng không thiếu người góa chồng, góa vợ, li dị, hoặc chán ngán chuyện gia đình, hay đang cô đơn, cô độc...lân la đến chùa để giải tỏa nỗi lòng tìm niềm vui. Người thì rán nghe Pháp Phật chiêm nghiệm nghiệp quả mình tạo ra rồi tụng kinh sám hối, kẻ thì kể lể với bạn đạo để trút hết bầu tâm sự  hay đôi khi trút cả đến những vị trụ trì nhờ “gỡ rối tơ lòng“. Tựu trung là tìm cách để giải tỏa nỗi khổ niềm đau.

   Có điều, không hẳn đến chùa sẽ luôn được an lạc, như bịnh nhân đến thăm bác sĩ đâu phải ai được chữa trị cũng hết bịnh đâu. Do vậy, khối người đến chùa lại chuốc thêm phiền não cho mình còn lây lan sang người khác, giống như bịnh truyền nhiễm vậy. Đôi khi còn là bịnh nan y bác sĩ bó tay, chỉ đưa về nhà nằm chờ chết. Cũng vậy, người đến chùa cầu mong an lạc, cầu sự giải thoát cho tâm hồn, nếu không tìm thấy những điều mong muốn, tự nhiên ở nhà, thế thôi. Nhưng theo tôi, người Phật tử chân chính cầu đạo, nhất là những Phật tử đang làm việc trong chùa, trước mọi khó khăn sẽ không sờn lòng, đôi khi xem nghịch cảnh là bài học để mình thử thách, tu tập, chuyển hóa địa ngục thành Niết Bàn. Nếu được như thế coi như đã đạt chánh quả ngay trên cõi đời này. Người bịnh coi như hết bịnh. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp, đứng trước ngọn núi cao, quá chênh vênh hiểm hóc không vượt qua được, hoặc trước dòng sông quá sâu, nước chảy xiết không bơi được thì tính sao đây, đành tìm lối khác mà đi, đổ cho tại “nhân duyên“, còn duyên thì hợp, hết duyên thì đi. Đức Phật có 84.000 pháp môn để tu, thôi thì, tu cách nào, đến chùa, hay tu tại gia, hay tu giữa chợ cũng đều tu được tùy theo căn cơ trình độ, sở thích của mỗi người, không ai lên án ai cả. Tục ngữ Việt Nam đã chẳng có câu:“Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa“để xác minh có ba nơi để tu, tu đâu cũng được mà.

   Trở lại việc trong chùa. Nhà chùa đa số phụ nữ đến nhiều hơn nam giới. Điều đó không ai phủ nhận. Nhiều câu hỏi đặt ra tại sao thì cũng có nhiều câu trả lời tùy theo quan điểm của mỗi người.

    Người thì cho rằng đã mang thân nữ là nghiệp nặng. Nghiệp từ kiếp nào đã thiếu tu còn gây bao lầm lỗi, nên bị đọa làm thân nữ giờ đến chùa để giải nghiệp. Có kẻ thì cho do phụ nữ nhẹ dạ dễ mê tín dị đoan bị mê hoặc bởi tôn giáo. Ngược lại, không thiếu người binh vực, đánh giá phụ nữ có niềm tin mạnh mẽ hơn nam giới, đến để hộ đạo, làm công quả giúp chùa, cúng dường, xây dựng, duy trì và phát triển Tam Bảo...Nói chung chín người mười ý. Nói sao cũng được hết. Nhưng một điều rõ ràng chắc chắn nhất là Đức Phật đã nhìn ra tâm tánh của phụ nữ “lắm chuyện“, biết rõ phụ nữ tuy cũng hữu ích cho chùa chiền, cho Phật giáo, nhưng sự hiện diện lai vãng của họ cũng...làm phiền nhà chùa không ít, đó là lý do, thời Đức Phật đã không cho phép nữ giới đi tu cho mãi khi có lời cầu xin khẩn khoản của Ngài A Nan, thị giả và là đệ tử ruột của Đức Phật, Đức Phật mới cho phép, nhưng Ngài phán rằng, để phụ nữ xen vô, giáo Pháp của Ngài sẽ trì trệ mất 500 năm!

   Lời phán của Phật thì chắc chắn không sai.

   Vậy bây giờ ta hãy nhìn xem và phân tích, chuyện các bà đến chùa đã, và đang xảy ra những gì nhé.

   Các bà đến hộ đạo, giúp chùa nhiều thứ, phải nói là rất đáng khen, đáng ngưỡng mộ. Từ hoa quả bày biện trang trí chánh điện đến khâu hậu cần lo cơm nước trong ban trai soạn, rồi dọn dẹp lau chùi, quét nhà, rửa chén, làm bánh trái phát hành tăng ngân quĩ cho nhà chùa…v.v…đều là nhờ các bà, thiếu bàn tay các bà là không xong. Tuy nhiên, bên cạnh công lao đó các bà cũng quấy đạo, quấy chùa không ít. Đức Phật cũng phải...ngán các bà, huống là quí sư ngày nay, sức đâu, thời gian đâu mà giải quyết nổi những tranh chấp, thị phi, tị nạnh, ganh ghét của các bà, chưa kể còn...chới với không ít dưới bóng dáng lẳng lơ đẩy đưa của mấy cô Thị Mầu khiến có thầy lầm đường lạc lối, đôi khi còn kéo ông thầy ra khỏi chùa đi mất đất luôn.

   Này nhé, chỉ nội việc thương quí thầy, nhìn ông thầy dưới nhãn quan như một thần tượng, một vị Phật, không bê tha cờ bạc, rượu chè nhậu nhẹt hút sách ăn chơi đàng điếm thiếu trách nhiệm với gia đình như những ông chồng của các bà, là các bà xúm nhau thương. Nhưng nếu thương với cái trí Bát Nhã lo hộ đạo hộ chùa đem niềm an lạc đến cho mọi người thì tuyệt vời quá, nói làm gì, đàng này với cái tâm chúng sinh, các bà có chút công lao, hay cúng dường nhiều là cái ngã nâng cao, lên mặt, nghĩ chùa là của mình, ông thầy là của mình rồi  nắm giữ, cột chặt không chỉ làm khổ ông thầy còn gây thêm bao phiền não cho thiền môn nữa.

    Nội việc chăm sóc thầy, bà nào cũng có tâm chăm lo và chỉ mong ông thầy chiếu cố. Một bát chè, chén xôi dâng đến cũng ghé mắt theo dõi ông thầy dùng phẩm vật của mình hay của người khác. Ông thầy nhắp chén chè của mình là lòng hỉ hả nở hoa. Bằng trái lại, buồn héo hắt, lần sau hết nấu luôn. Hoặc đôi khi một ly nước dâng thầy, thầy không khát giao cho bà khác uống cũng không xong. Thầy thân cận hỏi thăm, trò chuyện thân mật với ai, không với mình là lòng buồn tê tái, mặt xệ xuống chằm dằm như cái cối đá rồi bỏ chùa không thương tiếc. Thật khổ thân cho ông thầy, được thương mà…thương cái xương không còn!

    Nhưng cũng không nên đổ lỗi hoàn toàn tại quí bà. Bản chất phụ nữ là thế, nhưng cũng không phải không có cách giải quyết nếu vị sư lãnh đạo là một minh sư, cao tăng điều hành một cách khéo léo tuyệt vời thì mọi sự cũng yên thôi.

    Ngày xưa ở Trung Hoa, tương truyền vua Nghiêu nghe tiếng Trọng Hoa là người hiếu đạo biết tu thân, liền gả một lúc hai nàng con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng về làm vợ Trọng Hoa để thử tài Trọng Hoa...tề gia điều khiển hai bà vợ như thế nào, trước khi trao ngai vàng cho Trọng Hoa trị quốc theo lộ trình tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trọng Hoa chính là vua Thuấn đã “tề” được hai bà, bình được thiên hạ tạo cho xã hội thái bình an lạc vang danh muôn thuở. Điều đó nói lên rằng, hễ…khiến, điều khiển được các bà trong ấm, ngoài êm thì mới mong nghĩ đến việc đại sự khác.

   Trong chùa cũng vậy, nếu vị sư, nhất là trong vị trí trụ trì không khác gì làm dâu trăm họ trước các bà mẹ chồng khó tính khó nết, đòi hỏi phải xử sự cực kỳ khéo léo, công bằng, hòa ái, nội lực thâm hậu; trước phải tu thân, hành xử đúng đắn làm gương cho người khác mới đắc nhân tâm, chẳng những yên thân mình mà còn được các bà nể trọng xúm nhau phù trợ thì không riêng nhà chùa an lạc còn giúp Phật giáo phát triển vượt bực từ tài năng và tín tâm của các bà. Bởi vì, một câu nói ghi rằng  “Chúng ta cũng có thể tìm thấy Phật qua hình dáng các vị cao tăng tu hành chân chánh, giới đức tròn đầy; các vị là Trưởng tử của Như Lai, đại diện cho Phật để chúng sinh có chỗ nương tựa, qui ngưỡng; nhưng nếu là kiêu tăng phạm giới, không giữ lục hòa thì Phật sẽ ẩn, ma sẽ hiện. Các vị kiêu tăng chính là người phá Phật, hại Pháp mạnh hơn tà ma ngoại đạo nhiều lắm

    Cuối cùng, để giải quyết vấn nạn nhà chùa, để chùa được bình yên, an lạc và như là “bịnh viện tinh thần” chữa trị những nỗi khổ niềm đau thì nhà chùa cần dùng đúng thuốc do Đức Phật chế, toa thuốc mang tên Lục Hòa, trong có 6 vị:

1-       Thân hòa đồng trú: Cùng vui vẻ sinh hoạt dưới một mái chùa.

2-       Khẩu hòa vô tránh: Thành ngữ có câu “họa tòng khẩu xuất” (họa do cái miệng mà ra), một lời nói ra “tứ mã nan truy” do vậy nói năng cẩn trọng, dùng ái ngữ nhẹ nhàng, từ tốn, hòa nhã, lịch sự, dù trái ý cũng không đưa đến tình trạng tranh cãi, hờn dỗi, nhìn nhau bằng ánh mắt gờm ghè.

3-       Ý hòa đồng duyệt: Mọi ý kiến đều đưa ra chia xẻ, bàn bạc trong tâm ý hòa hợp cùng lắng nghe nhau để thấu hiểu cảm thông nhau.

4-       Giới hòa đồng tu: Cùng tôn trọng và tuân thủ những giới luật mà mình đã thệ nguyện.

5-       Kiến hòa đồng giải: Trao đổi sự hiểu biết, giải bày mọi ý kiến, kinh nghiệm trong tinh thần hòa hợp.

6-       Lợi hòa đồng chia: Vui vẻ chia xẻ những quyền lợi vật chất một cách hợp lý không tổn hại đến quyền lợi chung.

 

  

Toàn những vị thuốc trụ sinh diệt trừ Virus mang tên tự ngã, ích kỷ, tư lợi luôn đặt cái tôi, cái của tôi trên hết để khi sinh hoạt dưới một mái chùa mới có thể sống bên nhau, chia xẻ, bàn bạc, lắng nghe, trao đổi, cảm thông và thấu hiểu nhau trong tinh thần hòa kính...“Tứ chúng đồng tu“.

nhung cay but nu bao vien giac

(Tác giả Trần Thị Nhật Hưng, người thứ 3 từ bên trái,

cùng với các cây bút nữ Báo Viên Giác, Hannover, Đức Quốc)



   Vâng, chính thế. Tới chùa, tứ chúng đồng tu không chỉ dành cho nam, nữ cư sĩ Ưu bà Tắc, Ưu bà Di tu mà còn Tăng và Ni nữa.

   Phương thuốc thần dược của Đức Phật đã có sẵn, là con Phật, chúng ta kính cẩn tôn trọng, khi chưa hết bịnh, thì cứ sắc mãi uống hoài, dù thuốc có đắng, khó nuốt nhưng “thuốc đắng mới dã được tật” đã đúng thuốc thì chắc chắn thế nào cũng khỏi.

Nào, chúng ta cùng  tứ chúng đồng tu  theo toa thuốc thần diệu có sẵn của Phật nhé.

Cám ơn các bạn. Kính chúc các bạn thân tâm thường an lạc.

 

Trần Thị Nhật Hưng

(Khai bút đầu năm 2018)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2010(Xem: 7044)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 3501)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3134)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8765)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3894)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4279)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7423)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2752)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2964)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4440)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567