Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bố Thí Đầu (truyện thơ)

03/05/201909:15(Xem: 5340)
Bố Thí Đầu (truyện thơ)


Buddha_15

BỐ THÍ ĐẦU


Thuở xưa nước Tỳ-xá-ly,
Đất thơm in dấu từ bi Phật-đà.
Có rừng cổ thụ ta-la,
Một chiều chim rộn trong hoa hát mừng.
Tay Phật cầm nhánh lan rừng
Quay sang phía hữu bảo rằng “A-nan!
Đạo ta như khói chiên đàn,
Mười phương pháp giới tỉnh hàng nhân thiên.
Gỗ tàn cho khói trầm lên,
Thế gian gieo một thiện duyên cũng là.
Thân này nào khác chi hoa,
Đạo như cây quý nở ra bốn mùa.
Hương trời giữa khói sương đưa,
Hoa kia rồi cũng một mùa như hoa.
Đây xe pháp giữa Ta-bà,
Giờ sao mưa gió nghe ra rã rời.
Dù Như Lai trụ muôn đời
Hay là một kiếp diệu vời khác chi.”
A-nan chẳng hiểu ý gì,
Phật truyền đến gốc cây kia trầm từ.
Bấy giờ trong cõi không hư,
Mây đen cuồn cuộn tựa như biển trùng.
Hiện ra ma vương Ba-tuần,
Dưới hoa quì lạy muôn phần kính tôn,
Rồi thưa “trong cõi bụi vàng,
Thế tôn đã độ vô vàn nhân thiên.
Bến mê đã lặng sóng phiền,
Sen thơm nở giữa khởi duyên trùng trùng.
Dù cho vô tận vô cùng,
Đạo ngài như vẳng hồng chung tiếng vàng.
Giờ xin thỉnh nhập Niết-bàn.”
Phật đưa một nắm bụi tàn trên tay.
Bụi này, hay cõi đất đây,
Đâu nhiều, đâu ít hỏi ngay Ba-tuần.
Ma rằng “chút gợn phù vân,
Cõi này đất hẳn muôn phần nhiều hơn.”
Nhẹ nhàng Phật nối lời luôn:
6.200.  “Vậy người mê muội trong cơn khác nào.
Luân hồi khổ ải lao đao,
Trôi lăn bể dục còn bao nhiêu người.”
Ma rằng “thiện ác mây trôi,
Ngộ mê như ngọn sóng dời biển đêm.”
Phật cười nở nụ nhiệm huyền,
Khen ma “ngươi chứng đạo hiền mốt mai.
Còn ta ba tháng nữa thôi,
Niết-bàn sẽ nhập như lời ngươi mong.”
Tạ lui, chúa quỉ ghi lòng
Lời ban di chúc, trần hồng khó hay.
A-nan thiếp ngủ giấc ngày,
Nằm mơ thấy một bóng cây rợp trời.
Trái hoa năm sắc tuyệt vời,
Bỗng dưng cây hóa mặt trời chói chang.
Mười phương gội ánh mây vàng,
Rừng cây nội cỏ nở ngàn hoa thơm.
A-nan tỉnh giấc mộng vương,
Nghĩ rằng bóng mát y nương bấy ngày.
Rồi ra cây hóa mặt trời,
Phương phương hoa cỏ hết nơi an bình.
Là khi mình phải cậy mình,
Đuốc hồng soi giữa vô minh bóng dày.
Thôi, ta sắp chẳng còn Thầy,
Dựa nương đức độ như ngày xa xưa.
Nghĩ rồi nước mắt như mưa,
Vội vàng tìm đến trình thưa Phật từ
Những điều vừa thấy trong mơ,
Khiến lòng một tín muời ngờ lắm thay.
Phật rằng “sinh, diệt xưa nay,
Ba tuần trăng nữa đến ngày đó thôi.”
Nghe xong Tăng chúng rụng rời,
Bóng cây đã hóa mặt trời tự tâm.
Phật khuyên “pháp giới vô thường,
Như Lai đã chỉ con đường vào ra.
Có ta hay chẳng có ta,
Tự tâm thanh tịnh vẫn là chốn nương.
Giới trai là của tư lương,
Trí bi là cửa chân thường tiến tu.
Vượt trăm ải mộng Diêm-phù,
Bừng soi trí huệ cho dù không ta.
Dù ta thường trụ Ta-bà,
Mải mê tham chấp cũng là như không.
Việc nên ta đã làm xong,
Lời nên ta cũng tận lòng mở khai.
Chân tâm thường trụ Như Lai,
Không đi, không lại, không ngoài, không trong.”
Ngài Xá-lợi-phất than rằng
“Ôi thôi! Mắt sáng thường hằng thế gian.
Bây giờ ngài nhập Niết-bàn,
6.250.  Chúng sinh như thể con đàn cậy ai.
Con xin diệt trước Như Lai,
Chẳng đành tâm thấy bóng ngài hóa thân.”
Nói rồi quanh Phật ba lần,
Quì nâng chén ngọc để lên đỉnh đầu.
Trang nghiêm từ biệt giây lâu,
Trở ra hạc nội rầu rầu cỏ xanh.
Ông tìm về La-duyệt thành,
Chốn quê, nở đóa hoa lành nơi đây.
Tin ông nhập diệt lan ngay,
Vua A-xà-thế lòng đầy xót xa.
Vội vàng lên thẳng loan xa
Cùng đoàn hộ giá tới nhà tranh quê.
Vua than “ngài nỡ vội về,
Lấy ai đem đạo Bồ-đề hóa khai!”
Rồi vua lệ nóng tuôn dài,
Khiến Xá-lợi-phất thấy bùi ngùi thương.
Ông khuyên “muôn vật vô thường,
Sớm làm mây nổi chiều vương mưa dài,
Xá gì sinh tử cõi đời,
Ngại gì một nắm xương dời dưới khe.
Thiện duyên vun cội Bồ-đề,
Kiếp như cát nổi đi về độ tha.
Thiện căn người lại gặp ta,
Pháp duyên hóa độ Ta-bà chuyển mê.”
Ngoài kia thiện tín dồn về,
Tin thầy sắp diệt não nề lòng ai.
Than rằng “ngọc sáng trời người,
Ôi gươm lửa cắt ba đời vô minh.
Ôi sen nở giữa đầm xanh,
Ôi chim giục sáng trên cành đông ba.
Nhờ thầy đại chúng an hòa
Bấy lâu, giờ lại xót xa tiễn người.
Đuốc trầm nghi ngút ùn hơi,
Trăng đêm man mác mây dời tàn sao.
Ông nhập thiền giữa đài cao,
Nội xa cỏ quý rì rào lá nghiêng.
Người lên từng cõi trời thiền,
Như chim tiên hạc qua miền tuyết hoa.
Trên cao mây hiện sắc tòa.
Sao đan tàn ngọc, khánh hòa gió bay.
Lời tiên vọng giữa trời mây,
Ca tụng hiền giả đức dày trí cao.
Ứng cơ chuyển tiếp pháp mầu,
Diệu thanh như thế suối mau mau dồn.
Biện tài như nước trời tuôn,
Giới như đại tướng phá cường địch mê.
Theo Như Lai mở Bồ-đề,
Pháp luân như ngọc pha lê tuyệt vời.
Chư tiên tán tụng dứt lời,
6.300.  Nhục thân La-hán vẫn ngồi an nhiên.
Giác linh thăng hóa cõi trên,
Trong khi đệ tử dưới miền nhớ thương.
Đây yên lặng, nụ cười buồn,
Kia ngồi than khóc bên đường như mưa.
Lại nhiều kẻ đứng trầm tư,
Tay dâng hoa trắng tựa bờ xuân mai.
Thôn trong cho đến thành ngoài,
Chim lồng cá chậu được người phóng sinh.
Phương đông vừa dựng bình minh,
Một làn mây đỏ hóa hình cỗ xe.
Từ xa đem lửa bay về
Kết thành tháp lửa bốn bề khói thơm.
Tiếng kinh thơ tụng bên đường,
Hoa như mưa lấp than hường dần tan.
Hiện ra xá-lợi hồng vàng,
Tựa kho ngọc báu bên đàng tỏa soi.
Lại nghe trên đỉnh từng trời,
Tiếng đàn ảo diệu chen lời hát ca.
Giây lâu, trời lặng như xưa,
Vua A-xà-thế bấy giờ bình thân.
Nhặt, chia xá-lợi nhiều phần,
Truyền đem xây cất mấy lần tháp cao.
Lại truyền định những nơi nào,
Dựng bia, khắc chữ, chép sao công người.
Thả tù, bố thí nơi nơi,
Gọi là tưởng niệm cuộc đời thánh Tăng.
Chuyện này do một khách thương,
Đem về bạch Phật tại rừng ta-la.
A-nan khi đó nghe qua,
Nhớ thương hiền hữu lệ sa vắn dài.
Thế tôn trông thấy mỉm cười,
Giơ tay vẫy đến bên người bảo ban
Rằng “thánh Tăng nhập Niết-bàn,
Pháp thân còn mãi vô vàn thiên thu.
Dù cho hoa cỏ Diêm-phù,
Dù cho khe suối sương mù gió mây.
Pháp thân còn đó còn đây,
Giới hương giải thoát tròn đầy nguyệt trong.
Nghìn xưa nơi cõi bụi hồng,
Phất từng diệt trước chẳng lòng nhìn ta.”
A-nan vội chắp tay hoa
Dưới thềm thỉnh pháp duyên là trước sau.
Phật kể “xưa kiếp Diêm châu,
Nguyệt Quang vua nọ đức giàu trí bi.
Lúa thơm muôn dặm xanh rì,
Thành cung một cõi lưu ly ngọc ngà.
Nọ lầu vàng rực mây tà,
Kia đền hồng ngọc chói lòa nắng mai.
Muôn muôn tụ lạc an vui,
6.350.  Sông biêng biếc lụa vọng lời đò ca.
Một hôm vua ngự thưởng hoa,
Nghĩ rằng đời khác như là xuân thu.
Nghiệp xưa tích đức hiền tu,
Kiếp này quả báo cho dù tốt tươi.
Phúc duyên cảm đến người người,
Núi sông thành quách ngời ngời vàng châu.
Bây giờ cầu chút duyên sau,
Mở kho bố thí muôn lầu gấm hoa.
Dù cho muôn cõi muôn nhà,
Dù cho khắp chốn Ta-bà ngại chi.
Tin vua bố thí loan đi,
Nhân dân khắp cõi tìm về tận nơi.
Sớm hôm lần lượt bao người,
Xin tiền, xin vật, như lời hứa ban.
Tiếng truyền oai đức Nguyệt Quang,
Khiến cho muôn nước lân bang nể vì.
Phương Tây có vị vua kia,
Ghét ghen là thói so bì xưa nay.
Càng nghe lòng giận càng đầy,
Liền bàn mật với nhóm bầy tôi thân.
Hỏi ai chước quỉ mưu thần,
Hạ Nguyệt Quang được một lần thị oai.
Có người giáo sĩ mỉm cười
Nói “xin lấy hẳn đầu người lập công.”
Vua nghe như mở tấm lòng,
Hẹn cho hai tháng phải xong việc này.
Việc thành hứa gả con đây,
Chung nhau quyền lợi đủ đầy trị dân.
Vui mừng, giáo sĩ lui chân,
Về non cầu đảo quỉ thần giúp tay.
Hành trang sửa soạn đó đây,
Voi chăng màn gấm đợi ngày kéo sang.
Bấy giờ vua nước Nguyệt Quang,
Nào là chớp giật nào hàng tinh rơi.
Khói sương ùn mấy ngày trời,
Rồi là sao chổi sáng ngời hiện ra.
Quạ đen bay lại bay qua,
Lại thêm dã thú gầm như động rừng.
Hết dân nằm mộng bất tường,
Trống rồng bị thủng, lọng vàng ngả nghiêng.
Lại vua trong giấc nửa đêm,
Nghe như xào xạc ngoài thềm lá rơi.
Trông ra: quỉ xám đương cười,
Tay cầm vương miện trỏ nơi ngai rồng.
Điềm chi, khiến mộng buồn lòng,
Bách quan nghe chuyện vô cùng xốn xang.
Đến hôm, trước cửa thành vàng,
Có người giáo sĩ lân bang xin vào
Tâu “ngài phát nguyện thanh cao,
6.400.  Đạo tâm tỏa sáng khác nào thái dương.
Nên tôi từ chốn Tây phương,
Vượt trăm dặm núi đỉnh sương hướng về.
Nghe ngài theo hạnh Bồ-đề,
Bao phen bố thí chẳng hề tiếc đâu.
Nhưng dù ban phát ngọc châu,
Cũng là vật dụng phải đâu khác người.
Dám cho đến máu thịt rơi,
Dám đem mạng sống cứu đời mới cao.
Nên tôi chẳng ngại xin vào
Giúp vua tự thắng, nêu cao gương hiền.
Nhưng vì rất khó, cho nên
Ngài có nhận trước mới xin giãi bày.”
Đức vua hoan hỉ chịu ngay,
Dù quên thân mạng lòng này ngại đâu.
Nghe xong đạo sĩ khấu đầu,
Dưới thềm khúm núm thêm câu dối lừa:
“Mẹ tôi nằm bệnh từ xưa,
Quỉ ma hành hạ thân già đớn đau.
Pháp sư truyền dạy đã lâu,
Bệnh này chữa phải có đầu đế vương.
Như ngài phúc tuệ đôi đường,
Thì bộ óc chính là phương thuốc thần.
Nói ra, thực rất ngại ngần,
Dẫu rằng đã được minh quân rộng lòng.
Phần tôi kính trọng ngai rồng,
Thay trời trị nước vô cùng lớn lao.
Trần gian dễ thấy ai nào,
Đã ngôi báu, lại đức cao như ngài.
Nhưng phần xót mẫu thân tôi,
Tuổi xuân đã chịu suốt đời gian lao.
Đến già lại bệnh khổ sao,
Nghe mẹ rên xiết như bào lòng con.
Nên liền xin lượng núi non,
Bằng không, xin chịu nát mòn cũng cam.”
Vua rằng “ngươi cứ yên tâm,
Đã lời hứa trước, tấm thân chẳng nề.
Đầu ta, ngươi sẽ đem về
Chữa bệnh ma quỉ, trọn bề dưỡng sinh.”
Triều thần sửng sốt khiếp kinh:
Vua bố thí cả mạng mình nữa sao!
Người băng lên chín bệ cao:
Xin ngài ở lại ngôi cao dân nhờ.
Người thì lý luận trình thưa,
Đem tài hùng biện khuyên vua đủ điều.
Nhưng lòng son vẫn không xiêu:
“Các khanh thôi chớ buồn nhiều vì ta.
Phải đem đức trải gần xa,
Không còn vị kỷ mới là độ sinh.
Nhân gian cần có gương lành,
Ta xin treo để thức tình người sau.
Thân này, vì muốn giữ lâu,
Thì trăm năm cũng qua cầu mà thôi.
Điện vàng đừng sợ không ngai,
Con ta lại sẽ nối ngôi trị vì.
Có chư khanh đó, lo gì,
Việc dân việc nước mọi bề vẫn yên.”
Đại thần có vị tiến lên
Rầu rầu đứng trước vua hiền lạy thưa:
“Thánh hoàng, hạnh nguyện độ tha,
Cắt đầu bố thí để mà khuyến dân.
Xin tha lỗi kẻ tôi thần
Chẳng đành ngó thấy mình rồng máu hoen.”
Nói rồi tự móc trái tim,
Bàn tay máu nhuộm dâng lên ngai vàng.
Trăm quan xiết đỗi kinh hoàng,
Dẫu là gan sắt cũng hàng lệ rơi.
Còn vua, di chúc hẳn hoi,
Lại thêm căn dặn đủ lời trước sau.
Rồi cầm gươm tự cắt đầu
Trao cho giáo sĩ vẫn chầu một bên.
Người này vội vã lên yên
Trốn đi như thể một tên tội tù.
Bấy giờ khắp cõi Diêm-phù,
Đất bằng chuyển động vụt vù gió bay.
Thiên cung mấy đỉnh từng trời,
Kim thân Bồ-tát rạng ngời chiếu soi.
Vội vàng thiên chúng nơi nơi
Trải hoa mười cõi dâng người đại bi.
Mưa thành cát ngọc lưu ly,
Gió thành diệu nhạc muôn vì sao nghiêng.
Hương trầm từ đất bốc lên,
Chim tha mây trải khắp miền hót ca.
Thần dân trồng mấy dặm hoa,
Nguyện cho thần thức vua hòa đại tâm.
Hóa siêu trong cõi mê lầm,
Như hoa nở giữa sơn lâm mấy trùng.
Trong khi giáo sĩ băng rừng,
Đem đầu vua, trốn trên lưng ngựa dài.
Phóng đi nào biết đêm ngày,
Lạ sao đầu nọ tỏa hoài hương thơm.
Khi về tới được biên cương,
Kiệu son sẵn đợi thẳng đường tiến kinh.
Tin loan khắp chốn khắp thành,
Khiến dân nước đó giật mình ngẩn ngơ.
Bấy giờ ở chốn cung vua,
Mừng như thắng trận treo cờ kết bông.
Dựng đài cao giữa chợ đông
Để bêu thủ cấp cho công chúng nhìn.
Sớm mai, vừa nhạt bóng đêm,
6.500.  Dân từ khắp nước đã chen nhau về.
Nóng xem cho được đầu kia,
Của người hiền đức bốn bề tiếng vang.
Trên đài cao, dưới nắng vàng,
Hộp sơn vừa mở thoảng làn hương bay.
Nhưng sao thật lạ lùng thay,
Đầu vừa khỏi hộp, hóa ngay sen hường.
Hào quang chiếu rực mười phương,
Gió thơm man mác, mây buông tàn đào.
Lại nghe đàn sáo ngọt ngào,
Âm thanh nhẹ tự trời cao thoảng về.
Người người khai ngộ lìa mê,
Chắp tay cung kính, bốn bề lâng lâng.
Nguyệt Quang xưa bực minh quân,
Đức dày nhiều kiếp tiền thân góp thành.
Vị quan tự móc tim mình
Là Xá-lợi-phất tu hành kiếp nay.
Suốt trong sáu cõi đổi thay,
Bao lần thị hiện đủ đầy cúng ta.
Dấu chân in khắp Ta-bà,
Bây giờ rũ nắm trần sa giữa dòng.
Như chim thần vút qua sông,
Tiếng kêu khiến nở vừng hồng đỉnh xa.”
Thuyết xong Phật dạo đường hoa,
Bước yên dưới liễu la đà nắng bay.


Phạm Thiên Thư
Thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu)
Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.
***

Nguồn: Hội hoa đàm
Cơ sở Văn Chương ấn hành, mùa Hạ năm Quý Sửu 1973, Sài Gòn, Việt Nam.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2016(Xem: 4747)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4340)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37287)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5408)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8819)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4517)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13937)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21133)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6729)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
16/05/2016(Xem: 12240)
Phim Phật Giáo: Quan Âm Bán Cá
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]