Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Lần Mất Cha

19/01/201918:50(Xem: 2569)
Hai Lần Mất Cha

hoa_sen (4)

Truyện ngắn

 

HAI LẦN MẤT CHA

 

 

        Ông ngoại nuôi tôi từ nhỏ, từ khi tôi mới bỏ bú mẹ, đến năm lên lớp 12 thì ông không còn sức lực để làm những công việc đồng áng nặng nhọc đòi hỏi phải có lòng nhẫn nại, tính cần cù và sức dẻo dai. Ông ngoại đã vắt kiệt sức mình ra suốt hai mươi năm hơn, để rồi bị quật ngã một đòn trí mạng phải nằm dính chặt trên chiếc giường ọp ẹp.

Vào một buổi tối của mùa hè nóng hầm hập, bên ngoài ánh trăng rằm tỏa sáng khắp vùng quê quạnh quẽ, ông ngoại thều thào gọi tôi lại ngồi một bên giường, nắm lấy bàn tay tôi bằng bàn tay xương xẩu khô héo đang rung run từng hồi. Ông dường như dùng hết tàn hơi để nói rõ từng lời cho tôi nghe:

“Chắc ngoại không qua khỏi keo này rồi, cháu ơi! Cháu phải hết sức bình tĩnh, hãy hứa với ngoại là vâng lời, thực hiện những điều ngoại căn dặn, yêu cầu đi!”

Tôi rúng động cả tâm can, ôm lấy cánh tay ông, giữ bình tĩnh hơn bao giờ hết để hứa chắc từng tiếng một:

“Cháu xin hứa vâng lời ông, làm theo lời ông dạy bảo dù trong bất cứ tình huống nào!”

Ông ngoại mỉm cười, gật đầu mấy cái tỏ vẻ ưng ý, giọng khàn khàn nhưng rất thiết tha:

“Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cháu cũng đừng nên bỏ học nửa chừng. Hãy học cho đến nơi, sự học hành sẽ mang lại cho cháu chỗ đứng vững vàng trong xã hội, nó giúp cháu thoát khỏi vòng vây của ngu dốt, đói nghèo và tội lỗi…”

“Cháu xin hứa. Cháu sẽ tiếp tục học, bằng mọi cách.”

“Mọi cách à? Phải trừ những cách xấu xa ra chứ. Chỉ bằng những cách theo hướng thiện lương, tránh xa xấu ác!”

“Dạ… dạ. Cháu sẽ tiếp tục học bằng mọi cách chính đáng và lương thiện.”

“Ừ, phải nói vậy thì ngoại mới yên tâm. Ông ngoại cho phép cháu bán đi ruộng, bán bớt vườn, bán bớt đất để lấy tiền mà ăn học dài lâu nếu cháu thật sự thấy cần phải bán. Nhưng cháu nhớ tuyệt đối không được bán căn nhà này, dù là giá trị của nó chẳng đáng xá gì, vì cháu cần phải có chỗ để nương thân  ít ra trong thời gian đầu sau khi ngoại ra đi…”

“Cháu xin hứa. Cháu sẽ không bao giờ để căn nhà này thuộc quyền sở hữu của người khác!”

Nghe tôi hứa chắc nịch, ông ngoại lắc đầu:

“Không. Ngoại không phải muốn cháu hứa điều đó. Vì ngoại còn phải lường trước mọi việc sẽ thay đổi sau khi cháu tìm gặp được cha của cháu…”

Tôi bàng hoàng. Tôi há hốc. Tôi trừng đôi mắt lên:

“Tìm gặp cha của cháu sao?”

Ông ngoại gật đầu, bóp lấy tay tôi chặt hơn:

“Ngoại muốn cháu hãy tìm đến cha đẻ của mình, sau khi ngoại đi xa. Có vậy thì ngoại mới yên lòng mà đi…”

Tôi lặng người, bần thần không hé môi. Thật ra chuyện tôi còn một người cha không phải là chuyện bí mật, chuyện bất ngờ. Từ thuở còn thơ tôi đã nghe phong thanh chuyện ấy, nhưng bao lần theo hỏi ngoại, ông đều im lặng. Đến năm tôi học lớp 5 thì ông dời nhà qua xã khác, ở đó không ai biết rõ gốc gác lai lịch của hai ông cháu tôi. Tôi chỉ biết đến đơn giản rằng tôi là một đứa con bị cha lẫn mẹ bỏ rơi khi mới non một tuổi. Tôi là kết quả của một cuộc tình duyên miễn cưỡng, oan gia tương báo. Cha tôi chưa hề biết mặt giọt máu rơi rớt của mình. Mẹ tôi đã bỏ con đầu lòng lại, cuốn gói ra đi biền biệt, vì  sợ hãi dư luận. Ông ngoại đã phải cưu mang nuôi nấng đứa cháu với sự trợ giúp của những người láng giềng tốt bụng. Những chuyện ấy tôi chỉ được nghe lỏm bỏm, lờ mờ, không liền lạc với nhau, từ miệng của những người sống cùng thôn. Ông ngoại chưa hề giải đáp tường tận cho tôi hay mỗi khi tôi thắc mắc. Không ngờ đến giờ phút lâm chung ông lại nêu lên một đề nghị quá sức tưởng tượng của tôi. Ông chậm rãi:

“Giờ là lúc ngoại không còn giấu diếm gì với cháu nữa. Ngoại muốn ra đi thanh thản, muốn cháu được đoàn tụ với người cha đẻ mà cháu đã mất một lần trong đời. Mất, thì nay cháu phải tìm lấy lại cho được. Ngoại tin rằng cha của cháu, dù là một kẻ bạc tình vô tâm, hay một kẻ ích kỷ, hay một kẻ hung ác đi nữa cũng không nỡ từ chối, không đành quay lưng với đứa con mang dòng máu của mình đâu!”

Tôi thật sự xúc động, bồn chồn và lo lắng, hỏi:

“Ngoại tin như vậy sao? Vì sao ngoại tin vậy?”

“Ngoại tin điều đó, vì cháu giống cha như đúc như in!”

Và rồi, bằng một giọng trầm khàn yếu ớt, ông ngoại lôi tôi trở lại với quá khứ đầy những tình tiết bất ngờ mà tôi chưa một lần được ai kể cho nghe…

Hồi ấy, ông bà ngoại mở sòng bạc ngay tại nhà. Sòng nho nhỏ thôi. Nhà ở gần đồn lính địa phương quân Việt Nam Cộng Hòa, nên các con bạc thường là lính, rất ít có những bác thằng bần thường dân vào ngồi chiếu. Ông bà ngoại nhờ lấy tiền xâu mà sống dư dả, khỏi phải ra đồng lội ruộng cho nắng cháy da, cho mưa ướt áo. Mẹ tôi khi ấy còn là thiếu nữ hai mươi ba, cũng chỉ ở nhà phụ giúp cha mẹ lo cơm nước cung phụng cho đám con bạc. Những bữa ăn khuya, nhậu nhẹt sau canh bạc của đám lính máu me đen đỏ đã đem lại một số lợi lộc cho ông bà ngoại tôi. Rồi ông bà ngoại cũng nhảy vào chiếu bạc. Lửa gần rơm thì tránh sao khỏi bốc cháy. Ông bà ngoại bắt đầu thua cháy túi, cháy rương tủ, cầm đất bán ruộng, nợ nần càng chất cao lên. Càng thua càng mạt cả từ đường. Chủ nợ của ông bà ngoại rất đông, nhưng người chủ lớn nhất là ông sĩ quan đại úy Đại đội trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông đại úy tên Từ, khét tiếng hung hãn, không như tên gọi của ông, là thượng khách của sòng bạc từ những ngày đầu mới mở. Ông đã có một gia đình êm ấm ở thôn bên kia bờ sông, nhưng lại thấy cô con gái duy nhất của ông bà chủ sòng bạc thì ông đã mê mẫn, buông lời trêu ghẹo, ngõ lời ông bướm ỡm ờ … Với quyền uy đủ làm cho mọi người khiếp đảm kinh hồn, ông đại úy đã đòi nợ ông bà chủ sòng bạc bằng sự chiếm đoạt cái trinh nguyên trong trắng của một người con gái. Ông bà ngoại tôi đã cắn răng nhắm mắt mà giao con gái cho ông Đại úy để cầm được trên tay tờ giấy cam kết xí xóa nợ nần. Sau khi chiếm đoạt được thứ quý báu mà bao thằng sĩ quan cũng như lính lác khác thèm khát, ông đại úy lui tới thường xuyên hơn để hưởng lạc thú trần gian bằng sự dọa dẫm hung hăng. Một số nợ nhỏ của ông bà ngoại cũng được ông đại úy xóa trắng giùm trong thời gian ấy… Khi mẹ tôi mang thai, ông Đại úy được tin với thái độ dửng dưng, vô cảm. Thế rồi, đến ngày chuyển quân dời đồn, ông Đại úy cuốn gói lên đường hành quân ra nơi trận tuyến mịt mù khói lửa. Ông bỏ đi không bao giờ quay trở lại cái thôn nhỏ bé có sòng bạc nhỏ, có người thiếu nữ mặt đẫm lệ ngày ngày ngồi xoa nắn cái bụng mỗi lúc mỗi to dần lên… Ông Đại úy là cha tôi đó. Tôi chính là đứa bé nằm trong bụng của người thiếu nữ con ông chủ sòng bạc nho nhỏ đó.

Mẹ tôi sinh ra tôi với sự căm hận oán hờn. Mẹ xem tôi như một của nợ đáng ghét, nhưng vẫn phải nâng niu nuôi nấng, vẫn phải vuốt ve cho bú mớm, dù rằng nước mắt không ngừng chảy tuôn. Gia cang suy sụp, không khí gia đình căng thẳng buồn hiu, bà ngoại tôi buồn bệnh rồi qua đời trước khi nói lời xin lỗi với con gái. Mẹ tôi lẳng lặng bỏ đi vào nữa khuya, để lại cho tôi nằm chơ vơ trên chiếc giường tre trống trơn và lạnh lẽo, cùng với lá thư đầy lời oán trách gửi cho người cha vốn đang bị khủng hoảng tinh thần. Ông ngoại ban đầu định mang tôi giao vào viện trẻ mồ côi, nhưng ông nhờ bà con chòm xóm đến an ủi, chia sẻ, giúp đỡ vật chất nên ông quyết định nuôi đứa cháu ngoại với mong muốn chuộc lại tội lỗi của mình gây ra.

Mẹ tôi bỏ đi bặt vô âm tính cho đến năm tôi lên bốn mới liên lạc với ông ngoại chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi. Ông ngoại chỉ biết được một điều ngắn gọn rằng mẹ đã lên rừng, đi theo Cách Mạng, và đã nên nghĩa vợ chồng với một “anh Việt cộng” hiền lành. Sau ngày đất nước Thống Nhất, ông ngoại ngóng trông ngày đêm với hi vọng đứa con gái duy nhất của mình trở về đoàn tụ, nhận lại đứa con rứt ruột đẻ đau mà vui sống với cảnh mẹ con trùng phùng. Nhưng người con gái ấy mãi mãi không xuất hiện một lần nào nữa, chết rồi hay vẫn sống không sao biết chắc được. Niềm hi vọng nguội tắt, hóa ra vô vọng thực thụ, ông ngoại tôi bắt đầu dồn hết tâm sức ra để lo cho cháu ngoại ăn học nên người. Ông xem tôi là mục đích duy nhất, quyết định duy nhất của quãng đời còn lại của mình. Nhưng ông ngoại đã không đi theo hết tận cùng con đường mà ông vạch sẵn cho thằng cháu ông đi. Ông đang muốn tôi đi tiếp cho đến đích dù ông không còn được đứng bên lề để làm một cổ động viên nhiệt tình và kiên nhẫn…

“Cháu hãy tìm đến với cha đi!”

Ông ngoại lập lại lời yêu cầu một cách thiết tha. Tôi im lặng, tâm tư chao nghiêng đảo xéo, ruột gan nóng lạnh vui buồn. Giọng ông yếu ớt dần sau những giờ phút cố gắng trối trăn:

“Cháu tìm qua giáo xứ Hà Linh, hỏi ông Hai Từ thì ai cũng biết. Cách đây 3 năm, ngoại đã có thăm dò, biết được cha cháu bị đưa đi tập trung học tập cải tạo ngoài Bắc, và đã trở về địa phương làm vườn, làm rẫy… Ngoại không phải mong cháu được người cha giàu có, khá giả đùm bọc đâu.Ngoại chỉ muốn cháu được đoàn tụ với cha, có một mái ấm gia đình, có nơi để nương tựa khi đau yếu,  dù ăn cháo gặm khoai. Thiếu tình thương, tình cảm thì sẽ khó đi đứng vững vàng trên dòng đời nhiêu khê khăn khó này, cháu ơi!”

… Một tuần lễ sau, ông ngoại tôi trút hơi thở cuối cùng, khi ấy tôi còn đang lân la dò tìm tin tức của cha mình. Ngay sau khi lo xong phần hậu sự cho ông ngoại tươm tất, tôi mạng dạn tìm đến ngôi nhà mà nhiều người đã chỉ vẽ khi tôi hỏi thăm. Một ngôi nhà rêu phong mang dáng cổ xưa, nằm giữa khu vườn cây lá sum suê xanh rì, với sân gạch đỏ nhạt, với nền cao cấp dài, đã cuốn hút tôi với một lực từ trường mạnh mẽ. Tôi đứng ngắm nhìn toàn cảnh trước mắt thật lâu, hít thở thật sâu để tìm được sự bình thản, rồi ung dung tự tại đi thẳng vào trong. Nhà vắng hoe. Từ nhà trước ra vườn sau không vang một tiếng động. Tôi cất tiếng:

“Có ai ở nhà không?”

Hỏi đến ba lần, tôi mới nghe tiếng sột soạt, tiếng dép lẹt xẹt, và một phụ nữ xuất hiện. Tôi lễ phép cúi đầu chào. Chị ta nhíu mắt nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi đôi mắt dừng lại đột ngột chiếu thẳng vào mặt tôi mà không hề chớp nháy.

“Em … em hỏi ai vậy?”

“Có phải đây là nhà ông Hai Từ không chị?”

        “Đúng rồi. Chị là con ổng đây.”

         “Vậy à? Chị là … chị thứ mấy?”

“Chị đầu. Em hỏi ba chị có chuyện gì?”

“Chị Hai… chị Hai không thấy nơi em có gì đặc biệt hay sao? Em vừa mới xem ảnh của gia đình treo trên vách kia… Em biết chắc mình đã tìm đúng nơi cần tìm, vì em nhận ra … nhận ra dường như có hình bóng của em, của chính em trên đó đó!”

Tôi chỉ khung ảnh trên tường. Rồi nói ngay:

“Em là con riêng của ba đây!”

Tôi nhấn mạnh từng tiếng. Người phụ nữ đứng trước tôi trố mắt, bàng hoàng nhìn tôi. Tôi cười thật thân thiện:

“Chị không thấy em giống ba sao? Không giống mấy anh em trai ở trong ảnh kia sao?”

Chị ta ấp úng, lúng túng:

“Có … có chớ. Giống … y khuông. Mới nhìn … cứ tưởng thằng An, tưởng thằng Long em chị. Có phải em là con của dì Loan bên thôn Đại Lạc không?”

“Ủa?”  Tôi thốt lên kinh ngạc “Vậy ra …?”

Chị ta bước lại kéo cánh tay tôi, lôi tôi lại ngồi ghế, nói:

“Trời đất ơi… thôi đúng chắc rồi. Đúng là con của ông già rồi. Xưa giờ có nghe ba nhắc đến dì Loan, đến một đứa con riêng mà ổng không thừa nhận… Ổng chỉ kể sơ sơ cho nghe thôi…”

Tôi tủi thân, rưng rưng nước mắt. Tôi bắt đầu ngồi thuật lại mọi chuyện cho người chị cùng cha khác mẹ nghe, kể không thiếu chuyện gì, kể cho đến đoạn cuối là giờ phút lâm chung trăn trối của ông ngoại mình. Chị Hai của tôi khóc sụt sùi, tôi không rõ chị ta khóc vì mừng được gặp đứa con rơi của cha mình, hay vì thương hại cho cuộc đời long đong, số phận hẩm hiu của tôi?

“Bây giờ, em đến đây để xin được gặp ba, được gặp anh chị em của em, theo nguyện vọng của ông ngoại…”

Chị Hai lại khóc dữ hơn, rồi nghẹn ngào:

“Muộn mất rồi … em ơi!”

Trời vừa sụp đổ xuống đầu tôi. Tôi gào lên:

“Sao lại muộn?”

“Ba đã đi Mỹ… Ba đi theo diện HO… từ năm 1995, sang bên đó được 6 năm thì … do nhớ quê nhà, thèm mắm nêm, ba ăn nhiều mắm quá, nên bị tăng huyết áp, rồi mất vì tai biến mạch máu não!”

Đất vừa sụp lỡ dưới nơi tôi đang ngồi. Tôi đã mất cha lần thứ hai. Tôi không một lần được ôm lấy cha mình. Và chưa một lần được gọi tên.

May tôi còn có hai anh trai cùng cha khác mẹ đang ở bên xứ người xa xăm, và một người chị lớn đang sống gần mình với một tổ ấm hạnh phúc. Chính chị Hai đã an ủi tôi trong lúc tôi cảm thấy chơ vơ tủi phận. Chị đã mở rộng cửa nhà từ đường của ông nội để lại cho cha, đón tôi về bằng tình thương dào dạt. Chồng của chị là một nhà giáo tri thức cũng niềm nở chân tình mời tôi đến chung sống dưới một mái nhà rêu xanh, và là người động viên tôi ráo riết nhất trong việc học hành.

 Tôi thi đỗ vào đại học sư phạm. Rồi tôi ra trường, trở về thôn cũ, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đem hết tâm sức ra để thực hiện lời hứa với ông ngoại, làm tròn thiên chức của một người chèo đò mang những đứa trẻ ngây ngô luôn bị thiệt thòi qua sông, và mơ ước đến một ngày mai quê hương mình rộn rã tiếng cười vui, tiếng nô đùa của con trẻ. Tôi mơ ước đừng có trẻ em nào bị mang lấy hoàn cảnh giống như mình, mà em nào cũng được hưởng diễm phúc, đủ cha mẹ để học hành khôn lớn… Tôi sẽ chèo không mệt mỏi, nhờ tôi nhớ mãi lời khuyên của người anh rễ, người thầy giáo đàn anh gần gũi tốt nhất, đã rót vào tai tôi khi biết tôi đau buồn vì hai lần mất cha:

“Đừng vì mất cha hai lần mà quỳ gối quy hàng. Cho dù có còn đến hai người cha, mà đôi chân mình chùn mỏi hèn nhát thì cũng dậm tại chỗ, hoặc bước lùi lại thôi!”

 

 

MÃN ĐƯỜNG HỒNG

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2079)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3314)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2657)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2815)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2035)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1858)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2249)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1705)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567