Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Báo Ứng

16/11/201822:11(Xem: 3187)
Báo Ứng
baoung_manduonghong

TRUYỆN NGẮN

 BÁO ỨNG 

 

          Ngày 1 tháng 4 năm 1975.

         Thành phố biển Nha Trang hiền hòa bỗng chốc biến động, trở nên hoảng loạn. Chợ Đầm bị đập phá, phát hỏa. Bọn cướp giật, đâm thuê chém mướn đủ các loại hạng từ các trại giam phá ngục ùa ra đường, túa đi khắp các ngõ, nhập vào những dòng người tất tả, hăm hở đi hôi của. Những quân nhân “Cộng Hòa” ở các trại lính cũng bỏ hàng ngũ chạy về thành phố, luýnh quýnh và sợ hãi, như rắn mất đầu, cầm cây súng trong tay như mang một của nợ khủng khiếp. Súng quăng lăn lóc ngoài đường, đạn dược ném vung vãi nơi công viên, bãi biển, trở thành những thứ vũ khí cực kỳ lợi hại và đắc dụng cho bọn đầu trộm đuôi cướp đang có mặt khắp các nẻo đường với một bầu máu tham sôi sục. Trong mấy giờ chính quyền cũ bỏ chạy, chính quyền mới chưa lập lại được trật tự ấy, thành phố như đầy hiểm họa và đổ nát, làm cho những người lương thiện, người thật thà và nhát gan phải chui rúc ru rú trong nhà đã đóng cửa cài then với những lời cầu nguyện triền miên trên môi…

          Nhà tôi cũng đã đóng cửa, im thin thít. Cha tôi đứng ngồi không yên, đi lên đi xuống như lửa bỏng dầu sôi, thỉnh thoảng nhìn qua khe cửa ra sân trước, ngó chừng cổng ngõ. Mẹ tôi ngồi kiết già trước bàn thờ Phật, miệng lâm râm những câu kinh câu chú cầu an cho tất cả mọi người. Tôi cùng hai đứa em ngơ ngác ngồi trong góc nhà, không hiểu ngoài đường đã và đang xảy ra vụ việc gì, muốn chạy ra sân cũng không được phép của cha mẹ. Chị dâu tôi sinh đứa con đầu lòng chỉ mới được tám giờ đồng hồ trước biến động, đang nằm ở nơi buồng kín.

          Mẹ tôi nghiêm trang căn dặn lũ anh em chúng tôi:

         “Đứa mô bước chân ra khỏi cửa ngõ thì đi luôn, đừng bước lại vô nhà ni nữa”

          Tiếng súng nổ râm ran đây đó, ngoài đường người ta chạy rầm rập, la hét ỏm tỏi, mẹ lo là phải. Cha tôi thì bước quanh quẩn bên cánh cửa trước bèn thờ. Nhìn ra sân, chừng như ông đang ngóng trông, chờ đợi một điều gì đó đang làm lòng ông nóng cháy. Và rồi, ông chợt reo lên trong nỗi vui mừng:

          “Ơ, thằng Hai Hoằng đã về đến rồi. Nó về đến nơi rồi, mình ơi!”

          Mẹ tôi sáng rực đôi mắt, thở phào nhẹ nhỏm. rồi đưa mắt nhìn lên tượng Phật với vẻ biết ơn đấng từ bi cao cả. Cha tôi vội vàng mở toang cánh cửa để đón đứa con trai lớn của ông vừa bỏ ngũ trở về. Anh Hai tôi bước vào nhà, an toàn nguyên vẹn, với một khẩu M16 trên tay, bộ quân phục đã nhuộm màu đỏ quạch của đất bazan, mặt mũi bơ phờ và đôi mắt còn tràn đầy kinh hoàng. Chúng tôi reo mừng vây lấy anh Hai. Cha mẹ tôi cũng mừng khôn tả, hỏi han anh Hai đủ điều. Mẹ tôi báo tin vui:

          “Vợ mi mới sinh khi sáng, một thằng con trai!”

           Quên hết những chuyện kinh hoàng đã và đang xảy ra, anh chạy ào vào buồng với vợ con…

          Những nén nhang trầm lại được thắp lên, khói hương lan tỏa khắp nhà, gia đình tôi đã tề tựu đông đủ, không thiếu vắng ai, cũng không sứt mẻ trầy trụa người nào, ấy là cái phước đức lớn lao an ủi cho mọi người trong giờ phút ngoài đường, ngoài phố, khắp nơi trong tỉnh và cả nước đang rung chuyển đổi đời…

         Đêm đến, tiếng súng nổ đã ngớt.

         Ngoài đường, và khắp nơi trong thành phố, những dòng người rầm rập ngược xuôi. Một số kẻ lợi dụng tình hình đi hôi của. Họ vơ vét bất cứ cái gì. Những con người điếc không sợ súng ấy đã quên hết mọi hiểm nguy có thể xảy đến với bất cứ ai, khi mà thành phố đang đợi chờ từng giây, từng phút được trông thấy hình bóng của những  người  mới về nắm giữ chính quyền.

          Anh Hai tôi cũng thuộc loại người điếc không sợ súng. Súng còn chưa sợ, nói gì đến lời khuyên răn của mẹ, lời nhắc bảo cảnh tỉnh của cha. Anh Hai xách súng chạy ra khỏi nhà, nhập vào dòng người đi vơ vét của cải. Anh Hai không đi đâu xa, chỉ đến tiệm tạp hóa ở đầu đường, tiệm Tân Hoa, dùng súng bắn nát ổ khóa cửa sắt, rồi một mình lẳng lặng khiêng mang đủ thứ về… Mẹ tôi mắng:

          “Mi lấy của thiên rồi sẽ trả cho địa!”

            Anh Hai tôi lạnh lùng đáp trả:

           “Vợ con của con đang khát thèm mọi thứ. Con phải lo cho đứa con trai đầu lòng. Những thứ con mang về, sẽ là vốn liếng sinh sống, con sẽ biến nó lớn lên, lâu dài và không mất đi đâu được. Con không hôi của, người khác cũng hôi!”

           Mẹ tôi nạt:

            “Nhưng đó là tội lỗi! Mi nhìn lại Ba mi mà xem, là viên chức cấp cao của Tòa Hành Chánh Tỉnh mấy mươi năm ròng, vậy mà không bao giờ sờ đến những lợi lộc, những đồng tiền không phải là của công sức mình làm ra, một đời thanh bạch đi làm hằng ngày bằng chiếc xe đạp mà vẫn nuôi nấng lo chu toàn cho cả gia đình đó, thấy chưa?”

            Anh Hai cũng không chịu sai:

            ”Người ta khiêng vác rầm rầm kia. Con không lo tương lai cho vợ của con, đó mới là tội lỗi!”

            Cha tôi bất bình hỏi:

             “Nhà người ta có người hay không, mà mi vào ngang nhiên như ăn cướp rứa?”

              Anh Hai tôi ngập ngừng giây lát thưa:

             “Chỉ có ba, bốn người đàn bà núp trong nhà. Có một người cũng mới sinh xong được một tuần qua. Con đâu đụng chạm gì đến họ, con cũng mở lời xin đàng hoàng, và họ cũng đồng ý cho rõ ràng, chứ đâu phải con ăn cướp?!”

            Cha tôi nặt:

             “Quá cha ăn cướp. Người ta là đàn bà yếu tim, mi cầm súng vào tận nhà, xin gì họ lại không cho!”

             Mẹ tôi quay quắt bước đi, giận trách:

             “Rồi mi sẽ nhận lấy hậu quả khi mang những thứ của phù vân nay về nhà!”

              Anh Hai tôi cười khẩy, tiếp tục bước ra khỏi nhà, suốt đêm làm con kiến cần cù lên đường tha mồi về tổ… cho đến sáng.

          Những ngày đầu thành phố đã có những chủ nhân mới đến tiếp nhận và cai quản, anh Hai tôi ra đầu thú, nộp giao vũ khí. Nhờ có bác họ tôi là một “cán bộ cách mạng  nằm vùng”, đứng ra bảo lãnh với lý do chị Hai tôi mới sanh con trai đầu lòng, nên anh Hai tôi khỏi phải đi học tập cải tạo. Anh Hai tôi chỉ là một lính bộ binh quèn, binh nhì đồ họa, nên cũng được chính quyền xét chính sách cho qua, nhờ vậy anh chỉ học tập cải tạo hai mươi hai ngày tại địa phương. Không những không bị kết tội, anh còn được biểu dương khen ngợi vì buổi sáng ngày 2 tháng 4, khi ban quân quản được thành lập, anh đã tham gia vào lực lượng bảo vệ, giữ gìn trật tự trị an cho thành phố, bắt giữ những tên cướp hung hãn, ngăn chặn những kẻ phá hoại, cướp bóc. Có nhiều người làm chứng cho anh Hai tôi chuyện này. Cái công lấp cái tội. Không ai biết chuyện anh Hai tôi đã một mình phá cửa vào tiệm tạp hóa Tân Hoa, mang về cả kho hàng hóa cất giấu trên gác. Chỉ trừ những thành viên trong gia đình tôi, và những người đàn bà có mặt trong tiệm Tân Hoa kia.

       Cha tôi lo lắng, thấp thỏm về chuyện này rất nhiều, cứ gặng hỏi anh Hai tôi luôn. Cuối cùng, anh Hai phải thú nhận: khi anh phá cửa vào, trong nhà không có ai trừ một thiếu phụ đang “nằm ổ”. Anh Hai có dò hỏi thì được biết cả gia đình đã sơ tán chạy vào Sài Gòn. Người thiếu phụ mới sinh được đứa con gái đầu lòng non một tháng, không chịu đi, nhất quyết ở lại giữ nhà, đợi người chồng là một thiếu úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang ở Tây Ninh chưa về được. Cả nhà nghe vậy thì thở phào, bớt lo.

         Khi cuộc sống đã bình lặng, thành phố đi vào nền nếp sinh hoạt mới, hít thở không khí độc lập tự do, qua dò hỏi lân la, anh Hai tôi báo cho mẹ tôi hay: Nhà Tân Hoa hoàn toàn vắng chủ, đã được trưng dụng làm trụ sở Ban nhân dân khóm. Chuyện hôi của mà anh Hai tôi một mình là thủ phạm, vậy là chìm nghỉm vào đáy lãng quên. Chỉ có gia đình tôi hay biết, và trời biết. Nhưng mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn nhắc:

        “Của thiên sẽ trả cho địa.”

          Cha tôi cũng ậm ừ phụ họa mẹ:

          “Không trả trước cũng trả sau, không chóng thì chầy. Mi hãy lo tu nhơn tích đức cho con cháu, Hai à!”

          Anh Hai tôi gạt bỏ ngoài tai những lời khuyên lơn của cha mẹ, bắt đầu nhảy ra chợ trời kinh doanh buôn bán. Khi chị dâu tôi đã mạnh chân mạnh cẳng, cháu tôi đã biết đi biết chạy, thời gian trôi đi vùn vụt, nhìn quanh thấy nhiếu người đói khổ, nhiều nhà tan tành cơ nghiệp đến trắng tay, thì vợ chồng anh chị Hai tôi được sung túc, dư dả nhờ quầy hàng tạp hóa. Anh Hai tôi có trong tay số vốn liếng khá lớn, phát triển thêm một sạp bán phụ tùng xe đạp. Thời bấy giờ, được buôn bán những mặt hàng thiết yếu ấy thì cứ là hốt bạc mà xài. Từ số vốn hôi của ban đầu, anh Hai tôi xây dựng được một cuộc sống vững vàng, ấm cúng cho vợ con đến mãi tận sau này…

           Hai mươi lăm năm trôi qua, anh Hai tậu được căn nhà riêng, mở tiệm bách hóa gần ngã tư phố xá nhộn nhịp.Vợ cùng ba đứa con của anh sống khỏe và sung túc. Gia sản của anh Hai ngày càng lớn hơn, nhiều hơn. Anh đã có dâu hiền, con ngoan quây quần bên mình thật hạnh phúc. Cha mẹ tôi đã không còn sống đến hôm ngày hôm ấy, hai mươi lăm năm sau ngày đất nước thay đổi chế độ, từ Cộng Hòa chuyển sang Cộng Sản...

          Thành phố biển hiền hòa sống trong hòa bình và phát triển…

          Nhưng riêng gia đình tôi, cái gì phải đến thì nó sẽ đến.

          Chuyện đã đến cách đây đã 15 năm, bây giờ tôi mới dám hé lộ cho mọi người biết, chỉ để nhấn mạnh và làm sáng lên về nhân quả báo ứng mà nhà Phật luôn luận thuyết vạch bày biết bao đời…

           Đứa con dâu trẻ trung khờ khạo của anh Hai vào buổi tối khi phố xá đã thưa thớt người đi lại, tiệm bách hóa đã đóng cửa, trong một lúc bất cẩn với bình xịt muỗi gián, đã xịt ngang qua chiếc đèn dầu nơi bàn thờ ông địa đặt dưới đất ở góc cửa tiệm, thuốc bắt lửa phụt cháy. Hoảng kinh, cô ném chiếc bình vụt khỏi tay, lửa cháy qua hàng hóa, lan nhanh trong tiếng kêu cứu thất thanh quá nhỏ của người gây ra hỏa hoạn. Ngọn lửa tàn bạo. Ngọn lửa dã man. Ngọn lửa không chút nương tình đã đốt nung cửa tiệm của anh Hai tôi, cháy rụi hàng hóa, đồ đạc. Vợ chồng, con cháu gia đình anh Hai chỉ kịp cứu lấy thân mạng của mình. Khi xe cứu hỏa đến, ngọn lửa đang lan qua hai nhà kế bên, may dập tắt kịp. Cháy sạch, mất trắng, căn nhà của anh Hai, cửa tiệm của anh Hai, sau hai mươi lăm năm nỗ lực gây dựng đã tan thành mây khói. Anh Hai lạc hồn ngay đêm ấy, và sáng ngày hôm sau trở thành một cái xác biết lê gót trên hè phố. Người ta chỉ biết anh Hai tôi điên vì tiếc của. Riêng tôi lạnh người khi chợt nghĩ ra rằng anh Hai tôi đang bị quả báo, anh lấy của thiên phải trả cho địa. Anh Hai đã trắng tay. Vợ con của anh cũng lâm cảnh ngặt nghèo trong mười lăm năm qua…

         Có một điều mà từ lâu chỉ mỗi mình tôi khám phá ra, biết được nhưng không dám tiết lộ cùng ai.

          Tôi chỉ có thể nói ra điều này cho cha mẹ tôi hay, nhưng rất tiếc là ông bà không còn hiện hữu trên thế gian ô trọc này.

          Tôi cũng có thể nói ra cho anh Hai tôi biết vào lúc anh đang trong cơn điên loạn. Nhưng nói ra chẳng ích lợi gì, và lại quá muộn màng.

          Đó là, tôi tình cờ biết được khi đám cưới thằng cháu tôi được tiến hành. Tôi nghe người này người nọ nói về nhà gái, tôi lạnh mình hoảng sợ, nhưng rồi nín thinh. Anh Hai tôi không hề hay biết, không nhớ nổi người sui gia của mình. Bên sui gia của anh Hai chắc cũng quên mất. Đám cưới được tổ chức vui vẻ, thông suốt, cô dâu chú rể cùng tuổi, xứng đối vừa lứa. Tôi lặng thinh, im bặt như hũ nút từ nhiều năm qua. Nếu bây giờ tôi tiết lộ điều bí mật ấy cho anh Hai tôi, anh sẽ được tỉnh táo sáng suốt như xưa, thì tôi sẽ mạnh dạn đến bên anh, hét vào tai anh rằng:

         “Con dâu của anh là đứa nhỏ con của thiếu phụ ở tiệm tạo hóa Tân Hoa cách đây bốn mươi năm về trước đó!”

           

                                                   MÃN ĐƯỜNG HỒNG

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4833)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10081)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3620)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4820)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5050)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7508)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4220)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13443)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
06/12/2014(Xem: 3615)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]