Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Báo Ứng

16/11/201822:11(Xem: 3260)
Báo Ứng
baoung_manduonghong

TRUYỆN NGẮN

 BÁO ỨNG 

 

          Ngày 1 tháng 4 năm 1975.

         Thành phố biển Nha Trang hiền hòa bỗng chốc biến động, trở nên hoảng loạn. Chợ Đầm bị đập phá, phát hỏa. Bọn cướp giật, đâm thuê chém mướn đủ các loại hạng từ các trại giam phá ngục ùa ra đường, túa đi khắp các ngõ, nhập vào những dòng người tất tả, hăm hở đi hôi của. Những quân nhân “Cộng Hòa” ở các trại lính cũng bỏ hàng ngũ chạy về thành phố, luýnh quýnh và sợ hãi, như rắn mất đầu, cầm cây súng trong tay như mang một của nợ khủng khiếp. Súng quăng lăn lóc ngoài đường, đạn dược ném vung vãi nơi công viên, bãi biển, trở thành những thứ vũ khí cực kỳ lợi hại và đắc dụng cho bọn đầu trộm đuôi cướp đang có mặt khắp các nẻo đường với một bầu máu tham sôi sục. Trong mấy giờ chính quyền cũ bỏ chạy, chính quyền mới chưa lập lại được trật tự ấy, thành phố như đầy hiểm họa và đổ nát, làm cho những người lương thiện, người thật thà và nhát gan phải chui rúc ru rú trong nhà đã đóng cửa cài then với những lời cầu nguyện triền miên trên môi…

          Nhà tôi cũng đã đóng cửa, im thin thít. Cha tôi đứng ngồi không yên, đi lên đi xuống như lửa bỏng dầu sôi, thỉnh thoảng nhìn qua khe cửa ra sân trước, ngó chừng cổng ngõ. Mẹ tôi ngồi kiết già trước bàn thờ Phật, miệng lâm râm những câu kinh câu chú cầu an cho tất cả mọi người. Tôi cùng hai đứa em ngơ ngác ngồi trong góc nhà, không hiểu ngoài đường đã và đang xảy ra vụ việc gì, muốn chạy ra sân cũng không được phép của cha mẹ. Chị dâu tôi sinh đứa con đầu lòng chỉ mới được tám giờ đồng hồ trước biến động, đang nằm ở nơi buồng kín.

          Mẹ tôi nghiêm trang căn dặn lũ anh em chúng tôi:

         “Đứa mô bước chân ra khỏi cửa ngõ thì đi luôn, đừng bước lại vô nhà ni nữa”

          Tiếng súng nổ râm ran đây đó, ngoài đường người ta chạy rầm rập, la hét ỏm tỏi, mẹ lo là phải. Cha tôi thì bước quanh quẩn bên cánh cửa trước bèn thờ. Nhìn ra sân, chừng như ông đang ngóng trông, chờ đợi một điều gì đó đang làm lòng ông nóng cháy. Và rồi, ông chợt reo lên trong nỗi vui mừng:

          “Ơ, thằng Hai Hoằng đã về đến rồi. Nó về đến nơi rồi, mình ơi!”

          Mẹ tôi sáng rực đôi mắt, thở phào nhẹ nhỏm. rồi đưa mắt nhìn lên tượng Phật với vẻ biết ơn đấng từ bi cao cả. Cha tôi vội vàng mở toang cánh cửa để đón đứa con trai lớn của ông vừa bỏ ngũ trở về. Anh Hai tôi bước vào nhà, an toàn nguyên vẹn, với một khẩu M16 trên tay, bộ quân phục đã nhuộm màu đỏ quạch của đất bazan, mặt mũi bơ phờ và đôi mắt còn tràn đầy kinh hoàng. Chúng tôi reo mừng vây lấy anh Hai. Cha mẹ tôi cũng mừng khôn tả, hỏi han anh Hai đủ điều. Mẹ tôi báo tin vui:

          “Vợ mi mới sinh khi sáng, một thằng con trai!”

           Quên hết những chuyện kinh hoàng đã và đang xảy ra, anh chạy ào vào buồng với vợ con…

          Những nén nhang trầm lại được thắp lên, khói hương lan tỏa khắp nhà, gia đình tôi đã tề tựu đông đủ, không thiếu vắng ai, cũng không sứt mẻ trầy trụa người nào, ấy là cái phước đức lớn lao an ủi cho mọi người trong giờ phút ngoài đường, ngoài phố, khắp nơi trong tỉnh và cả nước đang rung chuyển đổi đời…

         Đêm đến, tiếng súng nổ đã ngớt.

         Ngoài đường, và khắp nơi trong thành phố, những dòng người rầm rập ngược xuôi. Một số kẻ lợi dụng tình hình đi hôi của. Họ vơ vét bất cứ cái gì. Những con người điếc không sợ súng ấy đã quên hết mọi hiểm nguy có thể xảy đến với bất cứ ai, khi mà thành phố đang đợi chờ từng giây, từng phút được trông thấy hình bóng của những  người  mới về nắm giữ chính quyền.

          Anh Hai tôi cũng thuộc loại người điếc không sợ súng. Súng còn chưa sợ, nói gì đến lời khuyên răn của mẹ, lời nhắc bảo cảnh tỉnh của cha. Anh Hai xách súng chạy ra khỏi nhà, nhập vào dòng người đi vơ vét của cải. Anh Hai không đi đâu xa, chỉ đến tiệm tạp hóa ở đầu đường, tiệm Tân Hoa, dùng súng bắn nát ổ khóa cửa sắt, rồi một mình lẳng lặng khiêng mang đủ thứ về… Mẹ tôi mắng:

          “Mi lấy của thiên rồi sẽ trả cho địa!”

            Anh Hai tôi lạnh lùng đáp trả:

           “Vợ con của con đang khát thèm mọi thứ. Con phải lo cho đứa con trai đầu lòng. Những thứ con mang về, sẽ là vốn liếng sinh sống, con sẽ biến nó lớn lên, lâu dài và không mất đi đâu được. Con không hôi của, người khác cũng hôi!”

           Mẹ tôi nạt:

            “Nhưng đó là tội lỗi! Mi nhìn lại Ba mi mà xem, là viên chức cấp cao của Tòa Hành Chánh Tỉnh mấy mươi năm ròng, vậy mà không bao giờ sờ đến những lợi lộc, những đồng tiền không phải là của công sức mình làm ra, một đời thanh bạch đi làm hằng ngày bằng chiếc xe đạp mà vẫn nuôi nấng lo chu toàn cho cả gia đình đó, thấy chưa?”

            Anh Hai cũng không chịu sai:

            ”Người ta khiêng vác rầm rầm kia. Con không lo tương lai cho vợ của con, đó mới là tội lỗi!”

            Cha tôi bất bình hỏi:

             “Nhà người ta có người hay không, mà mi vào ngang nhiên như ăn cướp rứa?”

              Anh Hai tôi ngập ngừng giây lát thưa:

             “Chỉ có ba, bốn người đàn bà núp trong nhà. Có một người cũng mới sinh xong được một tuần qua. Con đâu đụng chạm gì đến họ, con cũng mở lời xin đàng hoàng, và họ cũng đồng ý cho rõ ràng, chứ đâu phải con ăn cướp?!”

            Cha tôi nặt:

             “Quá cha ăn cướp. Người ta là đàn bà yếu tim, mi cầm súng vào tận nhà, xin gì họ lại không cho!”

             Mẹ tôi quay quắt bước đi, giận trách:

             “Rồi mi sẽ nhận lấy hậu quả khi mang những thứ của phù vân nay về nhà!”

              Anh Hai tôi cười khẩy, tiếp tục bước ra khỏi nhà, suốt đêm làm con kiến cần cù lên đường tha mồi về tổ… cho đến sáng.

          Những ngày đầu thành phố đã có những chủ nhân mới đến tiếp nhận và cai quản, anh Hai tôi ra đầu thú, nộp giao vũ khí. Nhờ có bác họ tôi là một “cán bộ cách mạng  nằm vùng”, đứng ra bảo lãnh với lý do chị Hai tôi mới sanh con trai đầu lòng, nên anh Hai tôi khỏi phải đi học tập cải tạo. Anh Hai tôi chỉ là một lính bộ binh quèn, binh nhì đồ họa, nên cũng được chính quyền xét chính sách cho qua, nhờ vậy anh chỉ học tập cải tạo hai mươi hai ngày tại địa phương. Không những không bị kết tội, anh còn được biểu dương khen ngợi vì buổi sáng ngày 2 tháng 4, khi ban quân quản được thành lập, anh đã tham gia vào lực lượng bảo vệ, giữ gìn trật tự trị an cho thành phố, bắt giữ những tên cướp hung hãn, ngăn chặn những kẻ phá hoại, cướp bóc. Có nhiều người làm chứng cho anh Hai tôi chuyện này. Cái công lấp cái tội. Không ai biết chuyện anh Hai tôi đã một mình phá cửa vào tiệm tạp hóa Tân Hoa, mang về cả kho hàng hóa cất giấu trên gác. Chỉ trừ những thành viên trong gia đình tôi, và những người đàn bà có mặt trong tiệm Tân Hoa kia.

       Cha tôi lo lắng, thấp thỏm về chuyện này rất nhiều, cứ gặng hỏi anh Hai tôi luôn. Cuối cùng, anh Hai phải thú nhận: khi anh phá cửa vào, trong nhà không có ai trừ một thiếu phụ đang “nằm ổ”. Anh Hai có dò hỏi thì được biết cả gia đình đã sơ tán chạy vào Sài Gòn. Người thiếu phụ mới sinh được đứa con gái đầu lòng non một tháng, không chịu đi, nhất quyết ở lại giữ nhà, đợi người chồng là một thiếu úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang ở Tây Ninh chưa về được. Cả nhà nghe vậy thì thở phào, bớt lo.

         Khi cuộc sống đã bình lặng, thành phố đi vào nền nếp sinh hoạt mới, hít thở không khí độc lập tự do, qua dò hỏi lân la, anh Hai tôi báo cho mẹ tôi hay: Nhà Tân Hoa hoàn toàn vắng chủ, đã được trưng dụng làm trụ sở Ban nhân dân khóm. Chuyện hôi của mà anh Hai tôi một mình là thủ phạm, vậy là chìm nghỉm vào đáy lãng quên. Chỉ có gia đình tôi hay biết, và trời biết. Nhưng mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn nhắc:

        “Của thiên sẽ trả cho địa.”

          Cha tôi cũng ậm ừ phụ họa mẹ:

          “Không trả trước cũng trả sau, không chóng thì chầy. Mi hãy lo tu nhơn tích đức cho con cháu, Hai à!”

          Anh Hai tôi gạt bỏ ngoài tai những lời khuyên lơn của cha mẹ, bắt đầu nhảy ra chợ trời kinh doanh buôn bán. Khi chị dâu tôi đã mạnh chân mạnh cẳng, cháu tôi đã biết đi biết chạy, thời gian trôi đi vùn vụt, nhìn quanh thấy nhiếu người đói khổ, nhiều nhà tan tành cơ nghiệp đến trắng tay, thì vợ chồng anh chị Hai tôi được sung túc, dư dả nhờ quầy hàng tạp hóa. Anh Hai tôi có trong tay số vốn liếng khá lớn, phát triển thêm một sạp bán phụ tùng xe đạp. Thời bấy giờ, được buôn bán những mặt hàng thiết yếu ấy thì cứ là hốt bạc mà xài. Từ số vốn hôi của ban đầu, anh Hai tôi xây dựng được một cuộc sống vững vàng, ấm cúng cho vợ con đến mãi tận sau này…

           Hai mươi lăm năm trôi qua, anh Hai tậu được căn nhà riêng, mở tiệm bách hóa gần ngã tư phố xá nhộn nhịp.Vợ cùng ba đứa con của anh sống khỏe và sung túc. Gia sản của anh Hai ngày càng lớn hơn, nhiều hơn. Anh đã có dâu hiền, con ngoan quây quần bên mình thật hạnh phúc. Cha mẹ tôi đã không còn sống đến hôm ngày hôm ấy, hai mươi lăm năm sau ngày đất nước thay đổi chế độ, từ Cộng Hòa chuyển sang Cộng Sản...

          Thành phố biển hiền hòa sống trong hòa bình và phát triển…

          Nhưng riêng gia đình tôi, cái gì phải đến thì nó sẽ đến.

          Chuyện đã đến cách đây đã 15 năm, bây giờ tôi mới dám hé lộ cho mọi người biết, chỉ để nhấn mạnh và làm sáng lên về nhân quả báo ứng mà nhà Phật luôn luận thuyết vạch bày biết bao đời…

           Đứa con dâu trẻ trung khờ khạo của anh Hai vào buổi tối khi phố xá đã thưa thớt người đi lại, tiệm bách hóa đã đóng cửa, trong một lúc bất cẩn với bình xịt muỗi gián, đã xịt ngang qua chiếc đèn dầu nơi bàn thờ ông địa đặt dưới đất ở góc cửa tiệm, thuốc bắt lửa phụt cháy. Hoảng kinh, cô ném chiếc bình vụt khỏi tay, lửa cháy qua hàng hóa, lan nhanh trong tiếng kêu cứu thất thanh quá nhỏ của người gây ra hỏa hoạn. Ngọn lửa tàn bạo. Ngọn lửa dã man. Ngọn lửa không chút nương tình đã đốt nung cửa tiệm của anh Hai tôi, cháy rụi hàng hóa, đồ đạc. Vợ chồng, con cháu gia đình anh Hai chỉ kịp cứu lấy thân mạng của mình. Khi xe cứu hỏa đến, ngọn lửa đang lan qua hai nhà kế bên, may dập tắt kịp. Cháy sạch, mất trắng, căn nhà của anh Hai, cửa tiệm của anh Hai, sau hai mươi lăm năm nỗ lực gây dựng đã tan thành mây khói. Anh Hai lạc hồn ngay đêm ấy, và sáng ngày hôm sau trở thành một cái xác biết lê gót trên hè phố. Người ta chỉ biết anh Hai tôi điên vì tiếc của. Riêng tôi lạnh người khi chợt nghĩ ra rằng anh Hai tôi đang bị quả báo, anh lấy của thiên phải trả cho địa. Anh Hai đã trắng tay. Vợ con của anh cũng lâm cảnh ngặt nghèo trong mười lăm năm qua…

         Có một điều mà từ lâu chỉ mỗi mình tôi khám phá ra, biết được nhưng không dám tiết lộ cùng ai.

          Tôi chỉ có thể nói ra điều này cho cha mẹ tôi hay, nhưng rất tiếc là ông bà không còn hiện hữu trên thế gian ô trọc này.

          Tôi cũng có thể nói ra cho anh Hai tôi biết vào lúc anh đang trong cơn điên loạn. Nhưng nói ra chẳng ích lợi gì, và lại quá muộn màng.

          Đó là, tôi tình cờ biết được khi đám cưới thằng cháu tôi được tiến hành. Tôi nghe người này người nọ nói về nhà gái, tôi lạnh mình hoảng sợ, nhưng rồi nín thinh. Anh Hai tôi không hề hay biết, không nhớ nổi người sui gia của mình. Bên sui gia của anh Hai chắc cũng quên mất. Đám cưới được tổ chức vui vẻ, thông suốt, cô dâu chú rể cùng tuổi, xứng đối vừa lứa. Tôi lặng thinh, im bặt như hũ nút từ nhiều năm qua. Nếu bây giờ tôi tiết lộ điều bí mật ấy cho anh Hai tôi, anh sẽ được tỉnh táo sáng suốt như xưa, thì tôi sẽ mạnh dạn đến bên anh, hét vào tai anh rằng:

         “Con dâu của anh là đứa nhỏ con của thiếu phụ ở tiệm tạo hóa Tân Hoa cách đây bốn mươi năm về trước đó!”

           

                                                   MÃN ĐƯỜNG HỒNG

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 5819)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3908)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4765)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15560)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3225)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11494)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18832)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6387)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3301)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
07/02/2015(Xem: 4768)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]