Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện ngắn: Cao Xanh Bỡn Cợt

05/11/201816:27(Xem: 3939)
Truyện ngắn: Cao Xanh Bỡn Cợt

caoxanhboncot_mdhong
TRUYỆN NGẮN

 CAO XANH BỠN CỢT

 

                Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị.

         Đố kỵ tài năng sao? Không phải.

         Kiểm soát được trái tim mình, tôi xin thề bán mạng trên có Phật dưới có Diêm Vương là tôi không những không hề đố kỵ cái tài nhả thơ trữ tình của chị, mà còn nghiêng mình khâm phục sát đất.

         Tôi đâu biết làm thơ, nên tôi không thể ganh ghét,mặc cảm tự ti với một thi nhân nào. Nếu có đố kỵ thì tôi đã nhằm vào những văn nhân kìa, bởi tôi chỉ chuyên viết văn, viết báo chớ đâu đụng chạm gì đến lĩnh vực thi ca?! Nhưng bản tính tôi từ bé đến lớn chưa hề biết ganh ghét ai, chưa hề có ác cảm với bất cứ ai chỉ vì tài năng của mình thua kém họ. Tôi nhớ, luôn luôn nhớ, vì đã học thuộc làu “Mười Bốn Điều Dạy của Đức Phật”, chừng như đã khắc cốt ghi tâm để mà ứng xử, đối phó với đời và với chính mình, thì điều thứ Tư là: “Bi Ai lớn nhất của đời người là Ghen Tị”. Bi ai thật, vậy thì tội dại gì mình phải rước sầu não thảm thương cho khổ mình chứ?

         Vậy thì lý do gì khiến cho tôi và chị, hai cây bút nữ triển vọng của tỉnh nhà, lại căm ghét nhau ngay từ ngày “nghe danh đã lâu nay mới biết mặt”? Tôi không hiểu. Chính tôi còn chưa hiểu nổi thì đừng hỏi có ai hiểu hay không. Còn chị có hiểu hay không thì tôi không tài biết được. Càng cố nghĩ tìm cho ra nguyên nhân tôi càng đi lạc vào khu rừng âm u mịt mờ. Tôi chỉ còn mỗi một cách là cho rằng: vì tôi và chị có duyên nợ oán thù với nhau từ muôn kiếp xa xưa, hoặc gần nhất là mới kiếp trước, nên kiếp này phải oán ghét nhau thôi! Oan gia duyên nợ trong vòng luân hồi luẩn quẩn, những gì khúc mắc rối ren, những gì đối đãi trả vay của tiền kiếp mà chưa thanh toán sòng phẳng với nhau, thì bây giờ gặp lại nhau mà giải quyết cho dứt điểm, hoặc thương lượng với nhau hẹn tiếp kiếp sau nữa. Tôi chỉ còn cách nghĩ vậy cho muôn sự vạn duyên trở thành đơn giản, ngắn gọn.

         Khổ một điều, khi đã ghét nhau rồi lại cứ gặp nhau hoài. Càng ghét nhau càng phải thấy mặt nhau nhiều hơn trước. Hây dà, cái vụ này thì nhà Phật gọi là “oán tắng hội khổ” rõ ràng rồi. Kể từ khi biết mặt nhau qua lần ông Tổng Thư Ký Hội giới thiệu từng hội viên trong cuộc họp, tôi và chị ta cứ đụng đầu nhau liên hồi kỳ trận, không ai buồn mỉm cười với nhau một nụ, không hề có một câu chào hỏi xả giao thốt lên dẫu là mấy câu đãi bôi khách sáo, cũng không hề nguýt háy nhau một chút cho ra ghét, chỉ là liếc trộm nhau thôi; khi thì ở bưu điện, khi thì vào chợ, khi thì vào hiệu sách, khi ghé sạp báo, thậm chí khi chui vào rạp chiếu bóng mini tối đen như đêm ba mươi cũng thấy rõ mặt nhau mới thật là… “siêu kỳ quái”!

        …Thời gian trôi đi, nỗi căm ghét vẫn cứ âm ỉ lục đục trong lòng, vẫn sống khoẻ mạnh, không teo tóp mà cũng không tăng trưởng thêm, chỉ ở một chừng mực nhất định, cũng đủ làm cho tôi khó chịu như phải cưu mang một món nợ vô duyên lãng nhách. Đôi lần, tôi muốn tự tìm lại trước chị để đưa ra lời đề nghị cả hai cùng xả hết những gì chất chứa bên trong ra một trận thật hả hê, để rồi mạnh ai nấy trở về với lòng nhẹ tênh thanh thản. Nhưng tôi không đủ can đảm, và cứ vái trời cho chị có được sự can đảm ấy. Vậy mà chị cũng không tìm đến với tôi để làm cái điều mà tôi mong đợi. Ghét nhau cứ phải ghét. Liếc nhau cứ phải tiếp tục liếc. Tôi thấy chẳng ích lợi gì cho cả hai, trừ một điều: kể từ khi biết mặt nhau để căm ghét nhau, cả tôi lẫn chị đều sáng tác dữ dội hơn, hăng say hơn, và nói theo kiểu của ”cục tiêu chuẩn đo lường” thì những sáng tác của cả hai ngày càng chất lượng hơn. Nếu tôi được giải nhì trong cuộc thi viết truyện ngắn trên một tờ báo có uy tín khắp nước, thì chị được giải nhất cuộc thi thơ cho thiếu nhi mang tầm cỡ quốc gia. Tôi đỗ đầu danh sách những truyện ngắn hay viết về “Sinh Đẻ Có Kế Hoạch” trong tỉnh, thì tên chị cũng leo lên ngồi vị trí chót vót trên kim bảng một cuộc thi thơ tứ tuyệt do một tạp chí Hội Văn Nghệ tỉnh bạn tổ chức với một chùm thơ bốn bài thật… quá tuyệt!

          Tôi khâm phục và mê thơ của chị lắm chứ! Nhưng phục thì cứ phục, mê thì cứ mê, mà ghét thì vẫn cứ ghét. Tôi đoán rằng chị cũng ghét tôi, mà không đoán được chị có thích đọc những sáng tác của tôi hay không? Tôi mong có ngày cả hai sẽ ngồi lại với nhau, nhưng ngày ấy cứ vẫn còn là trong giấc mơ, trong ác mộng sau trận ngủ vùi vì thức khuya cắn bút trước những trang giấy chi chít chữ…

       … Ngày ấy rồi cũng đến.

          Tôi bị tai nạn giao thông trên đường từ nhà đến trụ sở Hội, bất tỉnh mê man không biết trời đất trăng sao gì nữa. Sau này, khi qua cơn hiểm nghèo, hồi tỉnh lại, tôi mới được nhiều người kể cho hay chuyện tôi được chính chị bồng lên xe tắc-xi chở đến bệnh viện cấp cứu. Chị không chở tôi đi thì cũng sẽ có người khác chở, nhưng chị đã cứu giúp tôi nhiều hơn thế gấp nghìn lần. Bệnh viện không còn nhóm máu quý hiếm mà tôi mang trong nhục thể để truyền cấp cứu sau tai nạn mất quá nhiều máu. Máu của tôi là nhóm máu hiếm. Những người thân ruột rà của tôi cũng không một ai có cùng nhóm máu này. Thật trớ trêu, ông trời đang nổi hứng muốn bỡn cợt thư giãn với người dưới cõi bụi bặm, khi lại đưa đẩy đến bên tôi một người dưng xa lạ nhưng mang cùng nhóm máu hiếm với tôi. Chính là chị. Chị và tôi mang cùng một nhóm máu. Người mang nhóm máu này hiến cho người khác nhóm máu thì được, nhưng nếu nhận thì chỉ nhận đúng nhóm máu mình mang…

         Và chị đã không ngần ngại cho tôi những giọt máu quý hiếm để giành giật sinh mệnh của tôi lại từ trên tay tử thần… Khi tôi xuất viện, quanh tôi có đông đủ cha mẹ anh em, bà con quyến thuộc, bạn bè đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng… ai nấy đều hớn hở vui mừng cho ngày tôi được hồi sinh. Chỉ thiếu mỗi mình chị. Chưa bao giờ tôi thèm khát được nhìn ngắm dung nhan của chị như vào lúc đó, thèm khát đến độ cháy khô cả cổ và rát đỏ đôi mắt mình, nhưng chị mất hút ở đâu rồi…

       Từ bệnh viện, tôi không chịu về ngay nhà, mà yêu cầu mọi người đưa thẳng đến nhà của ân nhân cứu mạng.

        Ở đó, tôi được khóc một trận tầm tã đầm đìa trong vòng tay sưởi ấm của chị, của người mà tôi căm ghét bao tháng ngày qua…

 

MÃN ĐƯỜNG HỒNG

                                                                                                                     

                                                           

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/11/2011(Xem: 4087)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 18356)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 18985)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7271)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3816)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2827)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2851)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2836)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2693)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
16/09/2011(Xem: 11439)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]