Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

106. Tìm thầy thuốc minh oan ở Trường Sơn huyện

19/10/201812:20(Xem: 6613)
106. Tìm thầy thuốc minh oan ở Trường Sơn huyện

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 106:
Tìm thầy thuốc minh oan ở Trường Sơn huyện

Phá kỳ án, liệt phụ may gặp cứu tinh

Tôn Nhị Hổ nghe Hứa Cảnh Thôi đã cung khai hết, bèn nói:

- Lão gia không cần động hình, tôi xin khai hết. Nguyên tôi thường hay kiếm Hứa tiên sinh mượn tiền. Một hôm ông ấy nói với tôi: - Này Tôn Nhị Hổ! Chú là tài chủ đó! Tôi nói: - Tôi mà là tài chủ gì? Ông ấy nói: - Anh em chú bác với chú đã qua đời rồi. Chú khuyên bà chị dâu cải giá đi, thì gia tài của ông ấy khoảng 3 vạn lượng bạc, bà ta mang đi 1 vạn, chia cho bà con 1 vạn, còn 1 vạn lượng về phần chú. Như vậy chú không phải là tài chủ là gì? Phàm việc gì mưu sự do người mà thành sự Ở trời cả! Tôi nghe nói cũng phải, bèn đem việc đó bàn với chị dâu, bị bà ấy mắng cho một trận, và từ đó không cho tôi đề cập đến việc đó nữa. Sau đó Hứa tiên sinh thường hỏi tôi: - Chú có nói chuyện ấy với chị chú chưa? Tôi nghĩ rằng: "Vợ Ông ấy mới chết, chắc là ông ấy muốn chị dâu mình đây!". Tôi bèn giận ông ấy và nói: - Để tôi nói giùm cho ông. Ông ấy nói: - Tôi chỉ thích chị dâu của chú, còn gia sản không để ý tới, chỉ sợ chị dâu chú không bằng lòng thôi! Tôi nói: - Để tôi nói giúp thử xem. Tôi mượn cớ mai mối, thường đến ông ta mượn tiền luôn. Một hôm ông ấy nói: - Này Nhị Hổ! Chú cứ mượn tiền tôi hoài mà sao chú không chịu nói giúp tôi với chị dâu của chú cho tôi? Tôi đáp: - Thôi, ông dẹp ý nghĩ đó đi! Chị dâu tôi không chịu cải giá. Ông ấy nói: - Tôi thấy chị dâu của chú ngồi bán kim chỉ trước cửa nhà mà bụng càng ngày càng lớn, trong đó chắc có duyên cớ gì đây! Ông ấy lại nói: - Này Nhị Hổ! Tôi đưa cho chú một con dao, chú hãy đi hỏi chị dâu chú cái bụng lớn của bà ấy là tại làm sao? Bà ấy phải nói tư thông với ai, chú nhân đó đuổi bà ấy ra khỏi cửa, thì gia tư ấy há chẳng thuộc về chú ư? Tôi cho là đúng, bèn cầm dao đến nhà bà chị dâu, đúng lúc bà giúp việc đi vắng. Tôi đang hạch tội chị dâu, thì Lôi Minh, Trần Lượng bước vào khuyên can. Tôi đem việc này nói với Hứa tiên sinh. Ông ấy bảo: - Không hề chi, tôi có quen với Đỗ tiên sinh ở phòng hình sự. Ông ấy dạy tôi đánh vào đầu có thương tích để tố cáo lên quan huyện, rồi ông ấy giúp tôi trị tội Lôi Minh và Trần Lượng. Đó là những sự việc đã qua, tôi xin thật tình khai đúng.

Quan huyện bảo thơ ký hình sự ghi chép lời cung, rồi lập tức truyền đưa cả bọn Tôn Khang thị, Hứa Cảnh Thôi đồng lên quan đường. Thư ký hình sự đọc lớn lời khai trước mọi người. Hứa Cảnh Thôi sợ đến mặt mũi tái xanh. Quan huyện vỗ kỉnh đường hét:

- Hứa Cảnh Thôi! Ngươi là người có học, sao dám mưu đoạt tiết trinh người sương phụ, phá hoại gia cang của người! Ngươi có biết mình phạm pháp hay không? Giờ ngươi chịu đánh hay chịu phạt?

Hứa Cảnh Thôi lật đật quỳ xuống thưa:

- Bẩm lão gia! Chịu đánh là sao? chịu phạt là sao?

- Chịu đánh là đánh ngươi cho thật nặng. Còn chịu phạt là đánh ngươi 100 giới xích rồi phạt ngươi 3.000 lượng bạc để làm tấm bia trinh tiết cho Tôn Khang thị. 

Hứa Cảnh Thôi vội đáp:

- Y sinh tình nguyện chịu phạt.

Quan huyện bèn ra lịnh đánh Hứa Cảnh Thôi 100 giới xích ngay tại quan đường, rồi phái người áp giải Cảnh Thôi về lấy tiền. Quan huyện lại nói:

- Này Tôn Nhị Hổ! Ngươi vô cớ đặt điều, cầm dao hành hung hiếp đáp người quả phụ, mưu đoạt gia sản người, tội đó không thể dung thạ Bây đâu, đè hắn xuống đánh 40 mươi thước lớn cho ta! Chiếu theo luật Tống triều, cùm hắn 100 ngày rồi thả.

Quan huyện day qua hỏi:

- Bạch Thánh tăng, người xem bụng của Tôn Khang thị như thế nào?

- Bụng này là có thai đó!

- Thánh tăng không đùa chớ? Cô ta ở góa 3 năm nay làm sao có thai được?

- Lão gia không tin thì kêu cô ta đến trước huyện đường khám thử. Thai này không giống với thai bình thường đâu!

- Làm sao mà để khám nghiệm ở quan đường được?

- Tế Điên móc ra một cục thuốc đưa cho bà mụ bảo đưa Khang thị vào phòng trống sanh. Bà mụ đưa Khang thị vào phòng trống cho uống thuốc, lập tức sanh ra một bào thai huyết. Bọc trắng huyết đỏ, lớn bằng trái dưa hấu. Bà mụ cầm ra trước quan đường đưa cho quan huyện xem. Tế Điên che mặt nói:

- Hãy cầm đem chỗ khác đi!

Quan huyện hỏi:

- Đó là cái gì vậy?

Tế Điên đáp:

- Đó là huyết thai do khí đọng trong huyết mà thành. Người phụ nữ lấy kinh huyết làm chủ: một tháng không có kinh gọi là tật kinh; hai tháng không có gọi là bệnh kinh; ba tháng không có gọi là bế kinh; bảy tháng không có gọi là lao huyết phòng. Cục huyết thai này cũng là bệnh về huyết mỗi tháng một lớn.

Quan huyện chừng đó mới rõ, bảo lính đưa Tôn Khang thị về nhà. Quan huyện lại hỏi:

- Bạch Thánh tăng! Còn Lôi Minh và Trần Lượng bây giờ mình phải xử trí thế nào? Hồi nãy trước công đường, Lôi Minh la hét lớn tiếng, rút dao hành hung, tôi đương muốn ghép tội chung với Uẩn Phương thì vừa gặp Thánh tăng đến.

Tế Điên nói:

- Hôm Hòa thượng ta đi, có để lại một tờ giấy nhét dưới ống đồng, lão gia lấy ra xem thì rõ.

Quan huyện bèn trút ống đồng ra quả nhiên có một tờ giấy xếp lại. Quan huyện mở ra xem, thấy có bốn câu thơ:

Quan huyện anh minh khéo xét phân,

Chớ lầm người tốt với tặc nhân.

Tại nhà Mã Tuấn bắt tặc đảng


Góp sức đồ nhi Dương, Lôi, Trần.

Quan huyện xem xong nghĩ thầm: "Té ra Lôi Minh, Trần Lượng là môn đồ của Thánh tăng mà mình không rõ". Lập tức ra lệnh cách chức Hình phòng là Đỗ Phương vì giả công làm tư, ham của hối lộ viết lệnh công văn làm hại người hiền. Sau đó mới phái người kêu Lôi Minh, Trần Lượng lên trả con dao lại cho Lôi Minh và thưởng hai người 10 lượng bạc. Lôi Minh, Trần Lượng tới chào sư phụ. Tế Điên nói:

- Ta bảo hai con đi làm việc cho ta, dọc đường đừng có xen vào việc của ai hết mà không nghe!

Trần Lượng nói:

- Nếu không có sư phụ đến kịp lúc thì oan uổng này không biết làm sao bày tỏ!

- Thôi hai con hãy đi mau đi.

Lôi Minh, Trần Lượng cám ơn quan huyện, từ biệt Tế Điên, rồi đi ra khỏi nha môn. Hai người cứ theo đường lớn mà đi tới, đến mặt trời lặn, thấy phía trước có một tòa thôn trang nằm bên đường. Hai bên đường đều có phố xá buôn bán. Hai người vào một quán rượu hiệu là Tam Ích. Phổ ky mời hai người lên Bắc thượng phòng, lấy nước rửa mặt và mời uống trà. Hai người kêu cơm rượu ăn uống. Vì đi suốt ngày mệt nhọc, hai người cởi áo mở thắt lưng ngủ vùi. Sáng hôm sau dậy sớm, Lôi Minh dòm lại thấy đồ đạc còn nguyên, mà chiếc quần của mình đâu mất, bèn hỏi:

- Lão nhị, có dấu cái quần của ta chăng?

Trần Lượng đáp:

- Đâu có!

Rồi nhìn lại, chiếc quần của mình cũng không cánh mà baỵ Trần Lượng nói:

- Lạ thiệt! Cái quần của tôi cũng đâu mất tiêu rồi.

Hai người thức dậy choàng áo anh hùng ngồi đó chịu trận, định bụng kêu phổ ky hỏi thăm, nhưng chẳng lẽ lại nói chuyện mất quần! Trần Lượng nói:

- Này nhị ca! Không cần phải tìm kiếm làm chi! Cứ đưa tiền cho phổ ky mua cho ta hai cái quần, mắc rẻ gì cũng được.

Phổ ky nói:

- Được! Hai vị muốn mua quần cũng vừa đúng lúc! Hồi sáng sớm, ở bên phòng phía Đông có một vị khách cầm hai cái quần bảo tôi đi cầm giùm hoặc bán cũng được, với giá 20 lượng. Tôi không biết bán ở đâu nên không nhận. Mà thấy ông ta hình như hơi khùng khùng thì phải.

Trần Lượng nói:

- Chú cầm về đây cho chúng tôi xem thử!

Phổ ky đi ra, một lát cầm về hai cái quần. Trần Lượng xem lại, chính là hai cái quần của bọn mình. Hai người bèn lấy quần mặc vào. Phổ ky dòm thấy, nghĩ thầm: "Té ra hai người này không có quần đây mà!". Lôi Minh nói:

- Này phổ ky! Người bán quần đó ở đâu? Chú đưa bọn ta đến gặp ông ấy.

Phổ ky gật đầu, đưa Lôi Minh, Trần Lượng đến phòng Đông. Vừa bước vào cửa, nghe bên trong có tiếng nói giọng khẩu âm phương Nam:

- Chao ơi! Thằng nhãi ranh đó cầm chiếc quần đi bán ở đâu mà bây giờ chưa thấy về.

Phổ ky nói:

- Bán ở trong viện đây thôi mà! 

Hai người lớn bước đi thẳng vào trong viện. Dựa vào tường phía Bắc đặt một chiếc bàn, kế đó là một cái bàn bát tiên với hai chiếc ghế dựa. Một người đang ngồi trên ghế dựa, đầu đội khăn võ sinh công tử màu thúy lam có hai tua bỏ thõng, mình mặc áo choàng thúy lam, lưng thắt dây loan đái 5 màu, mang giày đế mỏng, gương mặt trắng trẻo, mày to mắt sáng, nhân phẩm khác người. Lôi Minh dòm thấy người này, nói:

- A, cái thằng này! Mi dám đùa với hai anh em ta hử?

Nguyên người này họ Liễu tên Thụy, tự là Xuân Hoa, trác hiệu Đạp tuyết vô ngân, cũng là một trong 36 bạn bè ở Ngọc Sơn, kết làm anh em với Lôi Minh và Trần Lượng. Người này tuy tướng mạo nho nhã nhưng tính tình rất khôi hài. Liễu Thụy từ thôn Như Ý ra đi, vâng lời mẹ của Dương Minh đi tìm Dương Minh trở về, đến phía Bắc thôn trang này ở lại mấy ngày vì nghe lời đồn có một tên ác côn tên là Truy hồn thái tuế Ngô Khôn, Liễu Thụy muốn điếu tra xem nếu hắn là tên ác côn thì khử hắn trừ hại cho dân. Ở lại khách điếm mấy ngày, Liễu Thụy không dò hỏi được tin tức chị Sáng hôm qua thấy Lôi Minh, Trần Lượng vào khách điếm nên Liễu Thụy bèn đùa giỡn một phen. Sáng nay thấy Lôi Minh, Trần Lượng đến, Liễu Thụy bèn hỏi:

- Lôi nhị ca, Trần tam ca, hai anh có mạnh giỏi không?

Hỏi rồi bước tới thi lễ. Trần Lượng hỏi:

- Liễu hiền đệ! Tại sao chú lại ở đây?

- Tôi vâng lệnh Dương bá mẫu đi tìm Dương đại ca.

- Dương đại ca hiện đã về rồi. Chúng tôi chia tay ở huyện Thường Sơn cách nay mấy ngày, hiện giờ chắc Dương đại ca đã về đến nhà rồi.

- Các anh gặp nhau ở đâu vậy?

Trần Lượng ho một tiếng, nói:

- Chuyện dài dòng lắm!

Nói rồi đem việc Hoa Vân Long tác ác ném độc phiêu hại ba bạn lần lượt thuật lại. Nghe xong, Liễu Thụy nghiến răng ken két, nói:

- Hay cho Hoa vân Long, mi thật là kẻ vong ơn phụ nghĩa! Dương đại ca đã phát thiếp lục lâm, tành toàn cho mi, đối đãi với mi trọng đại như thế mà mi nỡ lang tâm xử độc như vậy ư? Chừng nào gặp được mi, ta sẽ kết thúc mạng mi chớ không tha!

Trần Lượng nói:

- Đừng nhắc tới hắn làm chi! Bây giờ chú định đi đâu đây?

- Tôi nghe nói ở đây có tên ác bá, muốn dò xem thử.

- Để chúng tôi cùng đi với chú cho vui.

Ba người cùng ra đến thượng phòng, kêu thức ăn sáng, ăn rồi cùng kéo nhau đi. Ra khỏi cửa thôn không xa, họ thấy trước mặt có một người định treo cổ, miệng than thở:

- Trời ơi, trời hỡi! Thần Phật không để mắt cho, đất trời không nghe thấy giùm, thì sống làm chi?

Ba người nhìn kỹ, thấy người than thở trạc độ tứ tuần, đầu đôi khăn lam bốn góc, mặc áo choàng lam cùng màu. Trần Lượng vội bước tới hỏi:

- Bạn ơi! Vì sao không muốn sống thế? Xem ra bạn không phải là người tầm thường mà gặp phải chuyện chi đến nỗi? Hãy nói cho chúng tôi nghe xem có giúp được việc gì không?

Người ấy ho lên một tiếng, nói:

- Tôi sống đây cũng như chết rồi! Ba vị muốn hỏi, tôi xin thưa!

Rồi đem sự tình kể quạ Ba vị anh hùng nghe xong nộ khí xung thiên, muốn xắn tay can thiệp ngay, nào ngờ dây dưa đến một loại thị phi!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5773)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5838)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3918)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4793)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15603)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3242)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11512)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18839)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6399)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3317)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]