Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

56. Trịnh Hùng giữa đường gặp Tế Công

16/10/201821:14(Xem: 7017)
56. Trịnh Hùng giữa đường gặp Tế Công

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 56:
Trịnh Hùng giữa đường gặp Tế Công

Vương Quý trong rừng cướp khách lẻ


Người trợn ngược mắt chạy đến tiệm Thiên Hưng tên là Mã Mậu, ở bên đường Đông nơi Thiên Gia Khẩu. Cha hắn là Mã Chấn Cương, hắn có hai người anh đều là chí thú làm ăn, làm nông, đọc sách nối nghiệp tổ tiên. Chỉ có một mình Mã Mậu là đứa nghịch tử, rượu chè bài bạc, tệ ác đủ thứ. Một hôm đi chợ, có bao nhiêu tiền bạc áo quần hắn đều nướng sạch trong sòng đổ bác. Hết tiền hắn không mặt mũi nào về gặp gia đình, mới mua một sợi dây thừng, dự định ra ngoài Thiên Gia Khẩu, tìm chổ vắng vẻ tự ải cho xong. Vừa hay gặp lúc Phó Hữu Đức bị chứng đau bụng hành hạ, hắn đưa ra thuốc thổ tả mang theo cho Phó Hữu Đức và bảo:

- Tôi cho ông một ít thuốc đây, uống vô đi!

Phó Hữu Đức uống xong, dựa gốc cây ngủ như chết. Mã Mậu thấy ông ta là một hành khách cô đơn bèn nghĩ thầm: "Trong người ông khách này chắc hẳn có vàng bạc, để mò vào bụng ổng thử xem. Nếu mò vào mà ông ta thức dậy, mình sẽ nói: Tôi mò vào bụng ông xem ông còn đau đớn không? Còn nếu ông không tỉnh dậy thì có cái gì, mình cầm lấy đi luôn".

Hắn lấy tay sờ vào bụng Phó Hữu Đức, đụng ngay bó bạc rút ra xem, trong đó có 12 nén vàng. Hắn vội bỏ dây thừng lại, cầm vàng đi thẳng. Vừa đi vừa nghĩ bụng: "Chuyến này mình rước vợ con theo, tìm mướn hai gian phòng, đem một nén vàng đổi ra sống qua ngày, kể cũng sướng chán". Nghĩ rồi tiếp tục đi tới trước. Gặp một đám lau um tùm trước mặt, hắn nhìn trước sau không thấy có ai, bèn chui vào chôn ngay bó bạc và số vàng ấy xuống đất, đoạn đánh dấu để dể nhớ rồi đi tiếp về nhà ở Thiên Gia Khẩu. Về đến hà thấy cha hắn là Mã Chấn Cương đang đứng ở trước cửa. Vừa thấy mặt hắn, cha hắn nổi giận mắng lớn:

- Đồ súc sanh, mầy đi ra làm không biết bao nhiêu điều tồi tệ, không việc xấu nào mầy từ nan, thì còn trở về đây làm gì?

- Tôi trở về đây rước vợ con theo. Kể từ nay tôi không ăn cơm nhà ông nữa đâu! Trong nhà kể như không có tôi là được rồi, từ nay về sau ông khỏi phải lo lắng cho tôi nữa!

- Thế thì tốt quá, mầy rước con vợ mầy đi chỗ khác lẹ lẹ lên, để ở đây thấy mặt mầy tao ứa gan thêm!

Mã Mậu bèn vào nhà trong kêu vợ đi theo hắn. Cô vợ hắn không dám đi theo vì biết rằng hắn là người bất kể phải quấy, chuyện gì cũng làm được. Sợ rủi ro hắn sanh tâm quấy bán mình đi bất tử thì khổ. Vợ hắn là Tôn thị vốn là người hiền đức, nói với mẹ chồng:

- Con không muốn đi với ảnh.

- Không hề chi, con cứ đi với nó. Có việc gì mẹ sẽ tính cho con.

Tôn thị không cách nào khác, bèn bắt buộc phải đi theo Mã Mậu. Đi được nữa đường, Mã Mậu nói:

- Ta nói cho cô hay! Hôm nay nếu không phát tài, ta không rước cô đi theo đâu!

Hắn nói gì, Tôn thị cũng không thèm để ý nghe, cùng hắn đi về phía cửa thôn Thiên Gia Khẩu. Đến đám lau, hắn theo dấu tìm đến chỗ chôn vàng. Mười hai nén vàng đâu không thấy mà chỗ ấy là một bãi phân tổ bố.

Người lấy vàng của Mã Mậu giấu chính là Tế Điên. Khi Tế Điên gạt Sài Nguyên Lộc và Đỗ Chấn Anh chạy mau đến bắt tên giặc đang treo cổ để cứu Phó Hữu Đức, rồi chính mình đi về hướng Bắc, ấy là lúc Tế Điên đi vào đám lau lấy bó bạc và vàng rồi trút vào đó một bãi "của quý", đoạn lấp đất lại như cũ.

Mã mậu bới vàng y chẳng thấy chỉ thấy vàng khè, ngây người như kẻ mất hồn: "Hồi nãy mình nói phách để dắt vợ con đi là ỷ có vàng. Bây giờ không có vàng nữa làm sao đưa vợ con về đây? Thiệt là lời nói như tên bay, đâu có thể phát ra bậy bạ! Một khi vào tai người, sức nào nhổ ra được!".

Nghĩ mãi không ra, nói chẳng nên lời, dẫn vợ nhắm hướng quán Thiên Hưng đi tới. Tế Điên ở trong quán nhìn ra, lấy tay chỉ, nói với Phó Hữu Đức, ông coi kìa, kẻ trộm vàng của ông tới đó.

Phó Hữu Đức dòm ra, quả nhiên đích thị. Mã Mậu hai mắt trợn ngược, tự vả vào miệng liên hồi nói:

- Các vị Ơi, bữa nay trời trả báo tôi đây nè!

Vừa nói vừa chạy càn tới trước. Chạy tới một hồ nước, nhảy ùm xuống, ngóp lên hụp xuống vài lần rồi mất dạng. Vợ hắn là Tôn thị chạy tới thấy vậy, dậm chân khóc ròng. Trong nhà hắn sợ hắn bán vợ đi cũng chạy theo ra tới bèn ráng khuyên dỗ Tôn thị, rồi về báo lại với cha mẹ và hai anh em của hắn rằng Mã Mậu đã chết. Sau khi vớt thi hài Mã Mậu chôn cất xong, họ đưa Tôn thị về nhà cha mẹ ruột.

Mã Mậu chạy đi rồi, Tế Điên cầm 12 nén vàng đưa cho Phó Hữu Đức, lại bảo Sài Nguyên Lộc, Đỗ Chấn Anh lấy 200 lượng bạc lộ phí đưa ra hết cho Phó Hữu Đức và nói:

Hòa thượng ta nghĩ ông là một nghĩa bộc, nên ta thưởng cho ông 200 lượng bạc đây.

Phó Hữu Đức muôn vàn cảm tạ, nhận vàng bạc rồi trở về. Sài Nguyên Lộc lúc ấy mới nói:

Thưa sư phó, chúng tôi đã tới tiệm Thông Thuận rồi, Hoa Vân Long đã bỏ đi từ chiều hôm trước, sư phó đem tiền lộ phí cho Phó Hữu Đức hết thì bọn ta phải làm sao đây? Ở đây chớ đâu phải như ở Lâm An! Hễ bước ra là phải có tiền, ăn phải trả tiền cơm, ở phải tốn tiền phòng. Tất cả lấy đâu chi dụng?

Không hề chi, bất kỳ tiệm cơm lớn nhỏ, hễ vào ăn cơm ở trọ xong, cứ chỉ chót mũi của Hòa thượng ta là xuôi ngay.

- Đỗ Chấn Anh nói: Đúng, không chỉ chót mũi cũng chạy tuốt!

Nghe ba người nói chuyện như vậy, vị quan khách Vương Trung nghĩ thầm: "Tế Công đã trị mình hết bệnh, mình phải nên tạ Ơn người mới phải lẽ". Tiện tay lấy ra 100 lượng bạc nói:

Xin biếu sư phụ 100 lượng bạc làm lộ phí.

Tế Điên trợn mắt, nói:

- Ông cầm 100 lượng bạc này tính đền ơn ta hả? Công ta đáng giá vạn quan mà ông tính đền ơn bao nhiêu đó à? Thôi cất đi, ta không nhận đâu!

Vương Trung nghe nói như thế cũng không dám đưa nữa. Tế Điên nói:

- Hai vị Ban đầu nè! Theo ta bắt Hoa Vân Long đây!

Sài, Đỗ hai người không biết làm sao, cùng với Tế Điên ra khỏi tiệm Thiên Hưng. Bọn Trần Hiếu theo đưa ra khỏi cửa.

Tế Điên dẫn hai người đi được mấy mươi dặm, đến một trấn nhỏ, vào một điếm ngồi nghỉ. Ba người đều cảm thấy bụng đói cồn cào. Sài Nguyên Lộc nghĩ bụng: "Hòa thượng thật là đại từ bi! Có bao nhiêu tiền dốc hết cho sạch ráo, hiện trong túi không còn một văn! Bây giờ phải làm sao đây? Ăn cơm phải trả tiền cơm, ở phải trả tiền trọ. Bây giờ chỉ có nước đem chiếc áo kép này cầm đỡ dược một điếu hoặc 800 gì đó rồi mới có thể ăn và ở trọ được". Chủ ý đã định, bèn nói: 

- Thưa sư phụ, lão nhân gia chỉ lo làm phước thôi. Có bao nhiêu tiền đem theo đều cho hết không chừa lại lượng nào; chừng ăn cơm không có tiền phải làm sao đây?

- Không hề chi, ta đã có cách. Mấy ông đừng lo, cứ đi theo ta!

Hai vị Ban đầu không còn cách nào khác hơn phải đi theo Hòa thượng. Ba người cùng đi về hướng Tây, thấy một tòa đại quán rượu, bên trong tiếng dao thớt râm ran, bên ngoài thực khách ngồi đầy phòng. Tế Điên đi thẳng vào bên trong, hai vị Ban đầu bắt buộc phải đi theo. Phổ ky dòm ra thấy một Hòa thượng kiếc xăm xăm đi vào, cùng đi theo có hia người mặc quần áo trắng, giầy vớ trắng nốt, bèn nghĩ thầm: "Bộ dạng mấy người này không dám ngồi bàn ghế tất ở phía trước mới chiu vào đây kiếm chỗ ngồi chớ gì!".

Hậu đường toàn những bàn ghế sơn son thếp vàng rất lộng lẫy. Tế Điên chọn một bàn giữa phòng đến ngồi vào giữa, hai vị Ban đầu ngồi hai bên. Phổ ky hỏi:

- Ba vị mới đến hả?

Tế Điên đáp: Bộ ngươi tưởng ta không đến được à?

- Bây giờ ba vị cần kêu món chi?

- Trong tiệm này có món nào ngon không nhỉ?

- Tiệm của chúng tôi, nướng ram sống chín, chiên xào, hầm nấu, đủ thứ thơm ngon, dĩa lớn dĩa vừa dĩa nhỏ, tùy lòng khách muốn, kêu liền có ngaỵ Trái cây trân quý, tươi khô khắp miền, sơn hào hải vị, tiệc vừa sang đều đáp ứng được.

- Hải vị thượng đẳng, mỗi tiệc giá bao nhiêu?

- Mỗi tiệc chỉ 8 lượng thôi.

- Vậy thì dọn cho ta một bàn, rượu Thiệu Hưng lâu năm một hũ.

Phổ ky vâng dạ trở vào, bụng nghĩ thầm: "Cái ông Hòa thượng kiếc này, ăn bữa cơm sang trọng như thế biết bao nhiêu tiền, sao không thay bộ y phục lành lặn khác có phải dễ coi hơn không? Để coi một lát họ ăn rồi lấy tiền ở đâu trả cho biết". Bụng nghĩ như vậy, một mặt cứ thoăn thoắt quét bàn cùi ghế, lau chén bát dọn lên. Trước hết đem các trái cây tươi, khô ra ăn chơi, kế đem thịt ướp chiên xào, thịt gà vịt cá, dọn lên đầy bàn. Tế Điên mời:

- Hai vị ăn đi!

- Sài Nguyên Lộc và Đỗ Chấn Anh biết trong túi không có tiền, nói:

- Sư phụ ăn đi! Ăn cơm rồi không có tiền trả người ta, chúng tôi không dám đụng đũa đến!

Không tiền cũng chẳng hề chi mà!

- Không tiền, sư phụ nói làm sao với họ?

- Ối, hơi đâu mà lo! Ăn rồi không có tiền thì thôi, họ đâu có làm chi nào? Còn họ muốn đánh hả? Cứ để cho họ đánh! Đánh nhè nhẹ kể như huề nợ, còn đánh nặng họ phải trả thêm mình tiền thang thuốc. Chừng đó mình lại có tiền chén nữa.

Sài, Đỗ hai người cũng không dám ăn, nằm gục trên bàn mà chờ. Tế Điên vừa ăn nhậu vừa chê:

- Vịt này chưa mềm, hải sâm còn cứng quá, món hầm này quá mặn, làm chưa đúng cách. Này Phổ ky, lại đây!

- Đại sư phụ còn cần thêm gì nữa?

Những thức ăn này đều chẳng vừa miệng tí nào. Ngươi hãy đem cho ta một con cá giếc sống, đầu đuôi nhúng nước sôi, đoạn giữa tẩm rượu còn vảy, đem trụng dấm.

Phổ ky lật đật gọi đem lên. Tế Điên lựa chỗ nào ngon ăn trước, càng ăn sang lại càng khoái trá. Ăn nhậu một trận làm Phổ ky cũng phải thất kinh. Ăn xong, gọi phổ ky lại tính tiền. Tài phú tính toán một hồi nói:

- Cộng chung tất cả là 24 lượng 4 tiền.

- Có nhiều nhỏ gì. Kệ, bao nhiêu thì bao, ta cho thêm hai lượng nữa. 

- Cám ơn sư phụ!

- Khỏi phải cám ơn! Duy có điều tiểu Tăng ra đi vội quá không kịp mang theo tiền.

- Không tiền thì phải làm sao đây?

- Ngươi bảo với chưởng quỹ để ta viết một tờ giấy nợ.

- Tiểu quán không có giấy nợ.

- Không có giấy nợ thì viết đại lên tấm bảng cũng được mà!

- Viết trên bảng cũng là giấy nợ rồi! Đại khái là chúng tôi không bán chịu. Ông phải trả tiền mới được.

- Ta hiện giờ không có tiền, ngươi tính sao thì tính.

Phổ ky nghe nói, đến báo với chưởng quỹ:

- Hòa thượng ăn hết 24 lượng 4 tiền, ông ấy không có tiền.

Chưởng quỹ nghe báo, nổi giận nói:

- Miệng hồng răng trắng, ăn nhậu bất kể, ưa ngọt không ưa mặn, đòi cay chẳng muốn chua; ăn xong chẳng trả tiền, đánh họ cũng chẳng xong! Nhưng việc này không muốn đánh cũng bắt phải đánh mới được. Tụi bây đâu, ráp lại đánh ổng cho ta.

Tế Điên nghe nói như vậy mới hỏi: Này lão Sài, lão Đỗ, hai ông thấy làm sao đây?

- Bọn tôi không biết phải làm sao nữa.

Tế Điên nói: Này chưởng quỹ, ông đừng nóng vội. Ta sẽ biến tiền trả cho ông.

- Ừ, Hòa thượng biến đi! Bữa nay không có tiền trả thì không được đâu nhé!

Tế Điên đứng làm thinh một hồi lâu mới nói:

- Chưởng quỹ nè! Để chúng ta thương lượng với ông một việc: Ta ăn của ông cái gì, sẽ mữa trả cho ông cái đó nhé!

- Ông nói bậy bạ hoài! Mửa ra rồi tôi bán cho ai?

Tế Điên vỗ bàn la lớn:

- Eo ơi! 24 lượng 4 tiền ư!

Phổ ky thấy vậy nói:

- Khóc cũng phải trả tiền mà!

Chưởng quỹ đang sửa soạn muốn đánh Tế Điên thì nghe bên ngoài có tiếng người nói lớn:

- Này hiền đệ, chúng ta vào trong này uống ít ly rượu đã!

Sau tiếng nói, thấy hai người vén rèm bước vào, theo sau mười mấy kẻ tùy tùng. Vừa thấy Tế Điên, hai người ấy lật đật tới vái chào. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5770)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5836)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3918)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4789)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15601)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3242)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11510)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18839)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6399)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3317)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]