Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mười Câu Chuyện Bố Thí Và Cúng Dường (pdf)

06/10/201821:20(Xem: 5869)
Mười Câu Chuyện Bố Thí Và Cúng Dường (pdf)
MƯỜI CÂU CHUYỆN BỐ THÍ VÀ CÚNG DƯỜNG

MƯỜI  CÂU CHUYỆN BỐ THÍ VÀ CÚNG DƯỜNG

Trích từ Tiểu Bộ Kinh Nikaya

 10-cau-chuyen-bo-thi

Tâm Tịnh cẩn tập

MƯỜI CÂU CHUYỆN BỐ THÍ VÀ CÚNG DƯỜNG

Ngày nay, cảnh khổ bàng bạc khắp muôn nơi, vì chiến tranh, xung đột, thiên tai do tham sân si, đố kỵ, hơn thua, được mất của biết bao nhiêu phàm nhân trong thế giới vật chất khắc nghiệt xô bồ khó chịu này mà ra. Nhan nhản người khốn khó đang ngày đêm trông chờ sự hỗ trợ của các mạnh thường quân bằng tịnh vật và tịnh tài để sống qua cơn bỉ cực. Nếu trong hoàn cảnh bỉ cực này của tha nhân, những ai có lòng từ mẫn chân thành chia sẻ tịnh tài hay tịnh vật dù ít dù nhiều tùy khả năng, thì việc bố thí nầy được xem như là Quảng Đại Tài Thí, như đã được Như Lai dạy trong Trung Bộ Kinh – 142: Phân Biệt Cúng Dường (Pali) như sau:

Ai xuất ly tham ái

Bố thí không tham ái,

Vật thí được đúng pháp.

Với tâm khéo hoan hỷ,

Với lòng tin vững vàng,

Vào quả lớn của nghiệp,

Ta nói bố thí ấy

Là quảng đại tài thí.

Ngoài tâm chân thành ra, điều quan trọng của việc bố thí là bố thí có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, và bố thí có nghĩ đến tương lai, ba trong năm pháp được Thế Tôn xác định trong Trung Bộ Kinh, số 110 Tiểu Kinh Mãn Nguyệt, về người chân chính bố thí như người chân chánh như sau: “Bố thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố thí có suy tư kỹ lưỡng, bố thí vật cần dùng, bố thì có nghĩ đến tương lai.”

Liệu việc giúp đỡ của mình có mang lại lợi ích cho người nhận hay không? Bố thí vật như thế có thiết thực hay không? Việc làm như vậy có mang lại lợi ích lâu dài cho người cần được giúp đỡ hay không? Bằng cách nào có thể mang lại lợi lạc cho người khốn khổ? vv, là những câu hỏi người làm từ thiện thường hay nêu ra để tìm câu trả lời thích đáng nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho tha nhân.

Lại nữa, tại sao chúng ta bố thí? Vì thông cảm và thương xót trước nỗi đau khổ của hữu tình mà bố thí, hoặc bố thí để trang nghiêm tâm, đặc biệt bố thí cầu diệt độ, bố thí cầu vô thượng bồ đề, và mong cầu cho tất cả hữu tình trong hết thảy pháp giới sớm lên bờ giác, thoát khỏi khổ đau, và sớm trọn thành Phật đạo, thì việc bố thí như thế sẽ mang lại kết quả đại vinh quang, quả báo không thể tính kể.

Nhân đây, Tâm Tịnh xin giới thiệu mười câu chuyện bố thí được trích từ trong Tiểu Bộ Kinh Nikàya ngõ hầu giúp chư đạo hữu có thêm tư liệu tham khảo về hạnh bố thí cúng dường, pháp tu phổ quát của các Phật tử ngày nay. Qua đó, tùy duyên có thể ứng dụng mang lại lợi ích tha nhân và cho bản thân.

Tập sách được chia thành ba chương chính:  Chương I: Bố thí, cúng dường và quả đức có được gồm bốn câu chuyện. Chuyện thứ nhất kể về hạnh bố thí của bốn thợ dệt: Họ chia hoa lợi thành năm phần bằng nhau trong đó dùng một phần để bố thí. Quả đức có được rất kỳ đặc - Cả bốn thợ dệt tái sinh luân lưu vô số kiếp trong dục lục thiên như được đúc kết bằng những vần kệ cảm tác sau:

Thợ dệt bốn người cùng buôn bán

Ở Thành Ba Nại khéo phân chia

Năm phần hoa lợi đều không khác

Mỗi phần mỗi vị không kém hơn

Còn lại phần kia dùng bố thí

Làm lợi cho đời bớt khổ đau

Thiên thần bốn vị được gọi tên

Tứ Thiên, Đao Lợi  Dạ Ma Thiên

Đâu Suất, Hóa Lạc Cõi Tự Tại

Qua lại thiên dục vô số kiếp

Là nhờ hạnh lành, thí phần kia!

Chuyện thứ hai kể về một gia tộc bố thí với kết quả đại vinh quang: Sáu đời trong dòng tộc đều sinh thiên, làm Thiên Đế Thích, làm Nguyệt Thần, Nhạc Thần …., như được mô tả bằng những dòng kệ cảm tác sau:

Năm đời bố thí của Tiền Nhân

Sa-kha, Can-da, Su-ri-ya

Thiên Xa, Nhạc Thần đầy vinh hiển

Cõi Trời Đao Lợi khúc ca vui

Đến đời thứ sáu kẻ keo kiệt

Đập phá thí đường đánh người xin

Thiên Chủ Đế Thích liền quở trách

Bốn vị vương thần lắc đầu chê

Tiện nhân tham của ngu si quá

Chết sa đường ác chịu khổ hoài

Chuyển tâm bố thí như Tiền Bối

Lai sinh thiên giới gọi tên người.

Chuyện thứ ba kể về nàng Malli cúng dường Phật Thích Ca ba phần cháo sữa, và được làm chánh hậu của nước Kosola ngay trong một ngày:

Malli mười sáu hiền lương

Hương thơm diễm lệ, con người buôn hoa

Thảnh thơi dạo bước Vườn Hoa

Chơi đùa cùng với tố nga như nàng

Thật may gặp Đức Thích Ca

Hào quang sáng chói, Tăng đoàn vây quanh

Malli chân thiện kính dâng

Ba phần cháo sữa trong bình thêu hoa

Như Lai mỉm cười nói ra

Phước phần dâng cúng cho ra quả liền

Quốc gia vương hậu tưng bừng

Ko-so-la quốc ngay trong một ngày.

Chuyện thứ tư kể về chàng trai nghèo đi làm mướn cúng dường bốn phần cháo sáng cho bốn vị Phật Độc Giác. Kết quả đời sau tái sinh được làm Vua đại vinh hiển:

Nhà nghèo không tiền đi làm mướn

Ở thành Ba Nại thời Bra-ta

Dâng phần cháo sáng cúng dường Phật

Độc Giác bốn vị các phần riêng

Mong cho phước phần mai sau sẽ

Mãi luôn tái sanh cảnh không nghèo

Mong cầu quả vị Chánh Đẳng Giác

Cứu thế độ đời hết khổ đau

Hân hoan nhớ mãi phút giây ấy

Hết đời làm mướn được làm vua

Ở Thành Ba Nại Bra-dat-ta

Phước duyên nhớ lại cúng dường Phật

Trị quốc công minh thập vương pháp

Tinh cần bố thí không nghỉ ngừng

Cúng dường thanh tịnh bậc hiền nhân

Toàn dân hưởng ứng lời vua dạy

Mãn phần tái sanh khắp cõi Thiên .

Chương II: Những tấm gương bố thí- gồm bốn câu chuyện và một bài đọc thêm: chuyện thứ năm kể về tấm gương bố thí của hai vợ chồng triệu phú: bài học về chánh tinh tấn trong việc bố thí, nhịn đói bảy ngày liên tục để bố thí khiến cho Thiên Chủ và thiện thần phải kinh ngạc. Chuyện thứ sáu là tấm gương bố thí của cư sĩ Cấp Cô Độc cho thấy tín tâm bất động vào ngôi Tam Bảo tối thượng, và tâm hân hoan cúng dường Phật và chư Tăng không gì lay chuyển, khiến ác thần phải khiếp sợ. Chuyện thứ bảy là một câu chuyện kể về hạnh cúng dường của một gia chủ cho Độc Giác Phật cho dẫu ác ma hù dọa với cảnh địa ngục bày ra trước mắt. Chuyện thứ tám kể về chuyện cúng dường thực phẩm đúng cập bậc. Cuối phần này là bài đọc thêm, kể về gương cúng dường và bố thí ‘vô tiền khoáng hậu’ của vua Giới Nhật qua  Đại Thí Trường Vô Già trong 75 ngày liên tục trước khi ngài Huyền Trang trở về cố quốc, như được cô đọng bằng những lời kệ sau:

Giới Nhật làm vua vinh hiển hách

Mười tám quốc độ cõi Diêm Đề

Hân hoan chính sách cai trị quốc

Bằng thập vương pháp bậc hiền nhân

Quý ngôi Tam Bảo theo lời Phật

Làm Đại Thí Trường Vô Già Thí

15 dặm trường bến sông Hằng

Cúng dường bố thí bảy báu vật

Cùng kho lương thực vải gấm hoa

Bảy mươi lăm ngày không ngừng nghỉ

Cho đến không còn sót vật chi

Cởi bỏ vương miện nhẫn đeo tay

Hoàng bào nai nịt vòng trang sức

Bố thí cho người hết thảy luôn

Hân hoan khấn nguyện thập phương hướng

Xin gửi tất cả vào không gian

Thiện thú lai sinh có tên người!

Chương III: Phẩm vật cúng dường gồm hai câu chuyện: Chuyện thứ chín - Cúng dường cơm cháy được sinh thiên. Chuyện thứ mười – Cúng dường mè được sinh thiên.

Hy vọng tập sách nhỏ này mang lại nhiều điều bổ ích cho quý bạn.

 

Tâm Tịnh giới thiệu và cẩn tập

https://socialeducationalr.wixsite.com/tuhoa-cicg/stories

pdf-icon
10 CÂU CHUYỂN BỐ THÍ VÀ CÚNG DƯỜNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43806)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4396)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4343)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4249)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6356)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4640)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4056)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25029)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24066)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21210)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]