Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sanh Thiên Chứng Quả (Chuyện cổ tích Ấn Độ 2.000 và 2.500 năm)

11/09/201817:25(Xem: 3933)
Sanh Thiên Chứng Quả (Chuyện cổ tích Ấn Độ 2.000 và 2.500 năm)
co tich an do

SANH THIÊN CHỨNG QUẢ
Chuyện cổ  tích Ấn Độ 2.000 và 2.500 năm
(Ứng Chơn là một biệt danh của A-La-Hớn)
Dịch Thuật Từ “Xuất Gia Công Đức Kinh”  

Sưu tập & Việt dịch từ Hán Tạng:
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn.


Phía Bắc Trung Ấn Độ, vào thời cổ xưa, hơn 2000 năm, có một vị Thủ Tướng của nước Ba-la-nại, gia sản của ông rất là giàu có, quyền tước lớn, nhưng lòng ông luôn mang một nỗi niềm đau khổ. Vì, tuổi tác càng ngày càng già, tuy nhiều vợ, nhưng không một bà nào đem về cho ông một niềm vui mà ông mãi hoài mong thao thức, đó là một đứa con trai.

Là một vì Thủ Tướng, ông không thể tin những truyền tụng bừa bãi về sự linh thiêng từ các vị thần trong các miếu thờ ở hai bên dải sông Hằng. Linh thiêng nhất là Thượng đế, chúa trời, cầu gì cũng được! Cầu giàu có, con cái, miễn đến dâng nhiều đồ cúng và thành tâm là được toại nguyện. Nghe thì như thế, nhưng trên thật tế ông chưa từng gặp một chứng minh nào để tỏ rõ một sự thật. Ông cũng muốn đi cầu nhưng rất sợ mang tiếng là con người mê tín thì xấu hổ biết bao! Có lúc ông thầm nghĩ: “Nhưng biết đâu, lại có một sự thật trong các huyền thoại vô lý đó! Thôi đành phải đi cầu nguyện, và cầu nguyện trong một điều kiện đặc biệt hiếm có là có được một tấm màn che kín thị phi!”.

   Đầy đủ lễ phẩm, lễ nghi, ông Thủ Tướng trịnh trọng, thành kính khấn: “Kính Thần linh, Thượng Đế! Vì gia sự, tôi phải làm một việc mà tôi không nên làm theo vị thế của tôi. Do đó, tôi cầu khẩn Thần linh, Thượng đế chỉ trong một năm kể từ ngay bây giờ, Thần linh phải cho tôi một đứa con trai, đúng như ý nguyện, tôi sẽ làm mới đền đài, thếp vàng hình tượng, Qua khỏi năm một ngày mà tôi không có con, coi như không linh hiển, và Thần linh cũng chỉ là bịa đặt,  tôi sẽ ra lịnh phá bỏ tất cả các miếu, và mọi cách thờ cúng trên hai bờ dòng sông Hằng”. Khấn xong, ông lên kiệu ra về không quay mặt nhìn lại.

   Đây, nói về các Thần trong giới Thần linh, xôn xao hoảng loạn, không biết làm cách nào để giải quyết việc khó khăn tai họa, vì chỉ là chuyện đồn đãi của người đời, chứ xưa nay chưa có Thần linh nào làm được! Vì thần thì có, còn linh là sự thổi phồng gặp may của thế gian mà thôi.

   Nhưng cũng lạ, việc khấn vái cầu con và hăm dọa của ông Thủ Tướng lại thấu đến tai của Vua Trời “Đức Thích Đề Hoàn Nhơn”. Tiên giới, và cả trần gian, ai cũng biết, Ngài là Vua Trời, đệ Tử của Phật Tổ Thích Ca Như Lai.

Câu chuyện có vẻ ly kỳ, vì cách đây hơn hai ngàn năm, bấy giờ trong Giáo-lý của Phật-đà nói đến công đức, thì công đức siêu hơn cả thì chỉ có “Xuất Gia” mới là công đức tuyệt vời tối thắng mà thôi.

Như Kinh Nhân Duyên nói: “Xuất gia đầy đủ phạm hạnh, trong một ngày một đêm thì trải qua 20 kiếp, không đọa vào ba đường ác đạo”.

Trong Luật Tăng Kỳ cũng nói: “Chí thành phạm hạnh đầy đủ, Xuất gia trong một ngày một đêm, thì được 6 triệu, 6 trăm ngàn năm, tránh xa bóng dáng của ba đường dữ. Tuyệt vời như thế! Ai không ham xuất gia? Nếu ngược lại, tội báo với tâm giả đối sẽ cũng vô lượng!

Trở lại vấn đề trên, Đức Thiên Đế mời thỉnh các Thiên nhân (người trời) hợp bàn, tìm cách giúp đỡ cho các Thần ở hai bên sông Hằng khỏi nạn, và cũng phúc đức cho Thượng đế luôn.

 
Trong cuộc họp đó, Thượng đế đã khởi đầu câu hỏi:   
“Các khanh có diệu lý gì, có một “Thiên nhân” nào muốn xuống làm con trai của vị Thủ Tướng đó không?

Tâu Thiên Đế: “Làm sao tìm được Thiên nhân nào muốn xuống hạ giới” .

Tâu TĐ: “Cho người đi hỏi hết 33 cung trời thử xem” !.

-Các Khanh: “Trẫm có cách để biết người nào có thể  đi” Tái sanh!

Tâu TĐ: “Mình nên chọn Thiên nhân nào chịu đi vận động?”

-TĐ: “Trẫm mời tất cả các khanh có mặt đi hết được không”.

 - Tâu TĐ: Chúng thần tùy thuận!

-TĐ: “Vậy tốt lắm, luật trời có “Ngũ suy tướng hiện”, các khanh đi đến các cung thấy Thiên nhân nào hoa trên đầu héo, nách có mồ hôi, áo quần hôi dơ, ngồi đứng không yên, thân thể hôi thối, thì mời vị đó xuống trần. Các khanh nghĩ sao?  Một Thiên nhân Tâu:

-Theo thần, nói thì dễ, sự việc không mấy dễ, vì cõi Trời là phụng sự cho “Thiện Nghiệp” Thiên đế đã theo pháp lành của Phật mà nhúng tay vào việc của “Nghiệp Trần”, cho nên sợ khó thi hành. Hơn nữa, làm việc không dựa vào Nhân Quả, dù Thiên giới có thần thông hay cầu xin nương tựa vào Phật lực của Phật Tổ. Nếu Phật Tổ quở. Thần sợ, có gì sai trái chăng?

   Thực ra, uyên nguyên của vấn đề là từ hai chữ “Xuất Gia”, một tin tức quan trọng quá lớn trong Đạo Phật, Thiên nhân, cũng như phàm nhân ai cũng trăn trở không ít, đó là cái tin tức “Xuất gia” khỏi vào “ba đường dữ” tới 20 kiếp.

Với cái tin nầy, các Thiên nhân đều muốn “Xuất gia”. Chỉ có 1 Ngày 1 đêm, mang thân trong sạch, người Thiên nhân còn mong thay, huống gì phàm nhân ai lại không thích, ngoại trừ bọn tà đạo ngu si! Tuy nhiên thiện nghiệp không có thì lấy đâu ra bàn tay thiện pháp để mở cửa vào đạo? Vào phàm thân cũng đâu phải dễ, nhất là vào nhà vương gia quí tộc dễ gì họ cho con xuất gia? Bởi thế, nên tìm người trời tái sanh xuống làm phàm nhân khá khó khăn cho Thượng đế lắm vậy.

Còn tìm người “Trần gian” thì Thiên đế làm gì có quyền hạn đó, nhờ Sư Phụ Thích Ca Mâu Ni, Sư Phụ là đấng chí công, tất bắt phải tìm cho ra ai đó đủ phước đức của Chánh Báo và đủ phước đức của Y báo. Hơn nữa tiền kiếp phải tu dưỡng 10 điều lành, không gian tham, trộm cướp, tà dâm, háo dâm, không tin theo Trời, Thần, Quỷ vật, không dị đoan, mê tín, phải tu Lục Độ…Thiên đế tìm đâu ra các bậc siêu nhân đó để cho tái sanh vào làm con ôngThủ Tướng  hay các loại nhân chủng khác?

Sông Hằng đã qua chín mùa mưa nắng, dòng nước vẫn lững lờ trôi, xác chết nhẹ nhàng xuôi  về phương Đông còn vô định, người vẫn cứ tắm, ai thích uống cứ tự do, lời nguyện cầu có con trai của ông Thủ Tướng vẫn theo dòng năm tháng…giờ ra sao? Chưa ai biết.

Nhưng rồi, để theo dòng Nhân Quả, Thượng Đế có can thiệp giúp cùng chan hòa an vui trong tiến trình đạo lý, thì cũng gió mùa Thu heo may như mùa Thu nào năm trước.

Thượng Đế đã đích thân tìm gặp một Thiên nhân có xuất hiện tướng ngũ suy và đề nghị phương cách tái sanh vào gia đình ông Thủ tướng, nhưng Thiên nhân không thỏa thuận vì lòng mong muốn xuất gia sẽ bị trở ngại. Dù Thiên đế bảo đảm bằng cách nào Thiên nhân cũng không đồng ý! Phương pháp cuối cùng mà Thiên nhân vui vẻ chấp thuận là vị chúa trời trực tiếp đưa Thiên nhân gặp mặt đấng Thế Tôn.


    Sau mùa An Cư lần thứ 17 (565BC), ánh trăng ngời sáng, sấm động rền vang như báo một điềm lành hiếm có, thì gia đình của ông Thủ tướng ở Thành Ba-la-nại có buổi tiệc mừng báo hỷ chàng trai mang tên Hằng-Già-Đạt ra đời.

Mười năm sau, lần Tự-tứ thứ 27, (555BC) Pháp hội Vu-Lan có chuyện hiếm có xảy ra, Pháp hội như dài ra, tưng bừng hoan lạc, dân chúng mừng vui nhộn nhịp rao truyền… Trên cung trời Đao-Lợi và hoàng cung Ba-la-nại người người như mơ thấy có chiếc cầu nhiều màu sắc đang giao tiếp nhau (?) Chuyện gì xảy ra (!)…Thì ra, lại là câu chuyện “Xuất Gia” !.? Giữa Thiên Đế và Đức Thế Tôn Thích Ca “đang” có gì liên hệ (?). 

    Sau mùa mưa rét, giờ đây nắng đã reo vui, pháp hội hiếu ân kẻ vui cười, người rơi lệ, vui vì được nâng niu đôi tay đấng sanh thành khỏe mạnh trong lễ khấn cầu an! Giọt lệ mừng, vì giao cảm thấm nồng trong dòng ngân vang của tiếng chuông từ bi siêu độ! Muôn ngàn tia sáng tỏa ra từ ngàn vạn mảnh áo cà sa, Thích Ca Vô Thượng Phật Đà. Một lễ xuất gia.

 

Trên không trung có Phật, Bồ Tát, các Phạm Vương, các cõi Trời, các Thánh chúng, dưới cõi trần các vua quan thần dân đông đủ, có Đức Thiên Đế chủ cõi Trời Đao Lợi, Vua A-Xà-Thế, và gồm đủ 2,250 Tỳ Khưu A-La-Hớn.

co tich an do-2

Bấy giờ Vua Trời Kiều Thi Ca bước ra quỳ lạy Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật; Vua A-Xà-Thế cũng ra quỳ lạy Đức Phật và đồng thời đưa ra một thanh niên bị trói chặt tay chân, trông tiều tụy lam lũ… Vua Trời liền bạch:

Bạch Từ Phụ Thế Tôn, thanh niên nầy tên hiện giờ là Hằng Già Đạt, cách đây hơn 10 mùa lá vàng thu rơi rụng, là một Thiên nhân sắp đến ngày ngũ-suy, nên con can thiệp cho vào nhà ông Thủ Tướng mong mượn thân “Người” để “Xuất Gia” thành đạo. Nhưng không được toại nguyện, trốn ra khỏi nhà, quyết cầu tử vong, mấy phen không chết, nay phạm phép vua, sẽ bị hành hình, việc nầy do Vua A-Xà-Thế quyết định, cầu mong Thế Tôn chỉdạy. Đức Phật lặng thinh.

Vua A-Xà-Thế liền bạch: Bạch Thế Tôn, con đem Hằng- Già- Đạt đến đây con nghĩ Thế Tôn đã rõ biết, con chỉ muốn nghe lời dạy của Thế-Tôn, vì Thế Tôn là bậc Thầy Tam giới sư là Sư Phụ của con mà.

Bỗng trong dám đông có người ăn mặc sang trọng bước ra quỳ mọp, gương mặt sưng đỏ, nước mắt dầm đìa, cúi đầu lạy Phật.

Đức Phật đưa tay dạy rằng: “ Này Đại vương, chuyện đời lặp đi lặp lại, quá khứ hơn một ngàn năm cũng tại quốc độ nầy, có Phạm-Ma-Đạt lòng tha thiết muốn cầu xuất gia thành Phật, để độ chúng sanh, nhưng vì cha mẹ không cho, nên y lên núi cao nhảy xuống tự sát, chẳng hề hấn gì, tức mình y nhảy xuống sông thì nổi không chìm, y uống thuốc độc thật nhiều để cầu mau chết, nhưng uống vô nhiều thì chảy ra nhiều, y đau khổ bức rức, không làm sao để chết được. Sau có người bày cho y vào chọc phá triều đình sẽ bị được xử tử khó mà không chết. Cuối cùng y  chết và được tái sanh lên cõi trời Đao Lợi. Đó là Thiên nhân Phạm-Ma Đạt, sống trên cõi trời Đao Lợi, hơn 2000 năm. Thiên nhân Phạm-Ma-Đạt, nay là Hằng-Già-Đạt, con của ông Thủ Tướng,  người đàn ông sang trọng đang khóc đó.

Đức Phật liền hỏi tiếp Vua A-Xà-Thế:

Đại vương A-Xà-Thế, sự việc của Đại Vương liên quan thế nào?

Vua A-Xà-Thế bạch: Bạch Thế Tôn, Con và các quân thần, cung nữ đang vui vẻ tắm mát trong hồ ao, thì quân lính bắt thanh niên nầy, y thu trộm hết y phục của cung nữ và đang chạy trốn.

Đệ tử cho hành hình y, bắn 3 phát tên, 3 phát tên đều bay quay về chỗ cũ, nên đệ tử biết y có duyên với Phật pháp nên mang y về đây cho Thế Tôn tùy duyên xử dụng. Tiếng reo hò vang dậy: Lành thay! Lành thay! 

Vua Trời, Thượng Đế cung Đao Lợi bước ra quỳ bạch:

Bạch Thế Tôn: Thật lòng cầu đạo của Thiên nhân Phạm-Ma-Đạt quả đáng trân trọng, nếu không giúp cho Thiên nhân nầy thành tựu thì “nhân quả” biết nói sao cho phải lẽ!

Đức Thế Tôn mỉm cười, Ngài gọi ông Thủ Tướng và bảo: Đã qua bao phen sanh tử, cũng đã mấy ngàn năm rồi, ông và Thiên nhân Phạm-Ma-Đạt, nay là “Hằng-Già-Đạt đã hai lần làm con của ông, ngàn năm trước, nhảy núi không chết, nhảy sông không chìm, uống thuốc độc như uống nước lạnh, lần nầy con ông cũng mấy phen tự giết mình giống như nghìn năm trước, vậy mà cũng không chết, còn bị thêm ba mũi tên thần của Vua A-Xà-Thế, cũng không thiệt hại gì, chỉ vì cầu xuất gia, cầu độ chúng sanh, ông còn đòi gì nữa đây?  Sao ông nỡ đành không cho con viên thành đạo nghiệp, cứu độ sanh linh? Ông có thể tìm ra một “Người Phật” như thế trong thế gian nầy nữa sao?

Ông Thủ Tướng bước ra lạy Phật, và khóc rống lên trong niềm tha thiết mến yêu, đứa con Thánh nhân trong cõi đời ác trược, bằng cõi lòng rung cảm, hoan hỷ phụng hành.

Thiên nhân Hằng Già Đạt đến quỳ lạy Phật, được Phật vuốt tóc cho xuất gia và nghe pháp, ngay trong ngày hôm đó, được Phật gọi là Ứng Chơn Độc Giác.

Một ánh quang sáng vút thẳng lên không trung, một Phật Độc Giác về nơi an trụ chờ cơ duyên xuất thế. Ngàn muôn vạn tiếng niệm vang rền: Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai.

  ___________________________________________________________________                                                                                        
hoasen1                                             



Lời phụ: Bạn nào muốn vì sự giác ngộ của mình mà xuất gia, cũng như muốn độ bao khổ ách của người đời mà xuất gia thì nên gìn giữ Khẩu nghiệp, Thân và Ý Cho thật trong sạch, để được:

-Ra khỏi nhà thế tục! 

-Ra khỏi nhà phiền não!

-Ra khỏi luôn nhà 3 cõi. Bạn  nhé!

Mến chào bạn! Mời bạn cùng đọc với bài:

"Cực Tịnh Sanh Động"

“Câu chuyện thuở xưa của hai Ngài, Hàn Sơn và Thập Đắc.”

90 kiếp mới gặp lại con”.

Tìm xem trên Trang Nhà Quảng Đức và Phật Quang.

Mong bạn Giác ngộ, ra khỏi bao thị phi đã lầm lỗi khóa kín trong lòng bạn.

-Một vị Phật trong đời hiện thế. Như Ứng Chơn trong Sanh Thiên Chứng Quả.    











 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/01/2018(Xem: 5204)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11762)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9923)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7892)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3891)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6501)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 88514)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6716)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4947)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
01/11/2017(Xem: 4485)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]