Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần III: Với Đại Chúng

08/09/201820:07(Xem: 2771)
Phần III: Với Đại Chúng

PHẦN III

VỚI TOÀN THỂ ĐẠI CHÚNG

PHẦN III

VỚI ĐẠI CHÚNG

Đây là con đường tâm tư mở rộng cho riêng cá nhân mình nhưng cùng lúc tích lũy biết bao tình thân tuyệt vời, đầm ấm trong chặng đường 20 năm  hoằng hóa. Kỷ niệm đáng nhớ thường nhỏ bé, đơn sơ nhưng đa dạng, đã khắc sâu không ngờ trong tâm tưởng. Nào là con tem mấy chục xu nhưng thật khó kiếm ra vào lúc cần gửi thư cho bạn, bất ngờ được một chị người Công giáo trao cho tận tay. Nào là lúc ngồi lặng yên giữa khoảng rừng già cô tịch tiểu bang North Dakota, lắng nghe kể lể nỗi lòng của những em thiếu thốn hơi ấm gia đình - những trẻ mồ côi – mà cảm thấy thiên nhiên đồng cảnh cũng ngậm ngùi. Ngược dòng thời gian, là những ngày còn vùi đầu với sách vở, những ước mơ chớm nở hay lãng đãng thuở ấy nơi sân trường đại học là những gia tài quý báu mà tôi chẳng hề có ý định khước từ.

Hành Hương Phổ Đà Sơn

Đây là chuyến hành hương hiếm có do Hội Từ Bi Phụng Sự có trụ sở chính ở Anaheim, miền nam California tổ chức. Chuyến đi khởi sự từ 12.10.2008 và kết thúc ngày 23.10.2008. Người hành hương sẽ có cơ hội dừng chân tại hai thắng tích: Phổ Đà Sơn, nơi có tiếng là linh ứng với Bồ Tát Quan Thế Âm và Hoàng Sơn, một trong những danh sơn của Trung Hoa. Đại đức Hằng Trường, một trong những đại đệ tử của Hòa thượng Tuyên Hóa - vị cao tang khai sơn Vạn Phật Thánh Thành – là người hướng dẫn chuyến đi.

Cũng như những chuyến đi đông đảo khác, để tiện việc tổ chức và nhiều vấn đề khác, đoàn hành hương lên đến 127 người lần này được tổ chức làm 11 nhóm.

Ba nhóm đầu gồm chư tang và những người phát tâm xuất gia đoản kỳ. Các nhóm còn lại gồm những người đã thọ Bồ tát giới tại gia theo tinh thần Hoa Nghiêm và các Phật tử xa gần.

Trước khi lên đường, thầy Hằng Trường ân cần nhắc nhở rằng chuyến đi hành hương về chốn danh lam này có ý nghĩa của một cuộc trở về với tâm linh của mình để từ đó vững chí tu lập và góp phần hoàn thiện con  đường đi tới. Thầy không quên nhấn mạnh  rằng, chuyến đi này thực sự là cuộc hành hương về một thánh tích và người tham dự không nên xem đây là chuyến du ngoạn, giải khuây hay tìm kiếm những thú vui mà những cuộc du lịch thường có. Bạn ơi, bạn cũng như tôi sẽ không ngạc nhiên về những gì xảy ra trong chuyến đi này nếu chúng ta lưu ý những lời Thầy đã dặn dò.

Đoàn chúng tôi rời Hoa Kỳ trên chuyến bay KE 12 của hãng Korea Airline, đến phi trường quốc tế Hán Thành, được chuyển máy bay để đến Thượng Hải vào trưa ngày thứ hai 13.10 theo giờ địa phương. Ngồi trên máy bay hơn 16 tiếng đồng hồ, mệt mỏi và ê ẩm cả người nhưng khi rời phi cơ, thấy chung quanh mọi người hân hoan, tôi cảm thấy vui  lây. Lúc này, tôi mới có dịp làm quen với các bạn đồng hành. Có anh chị ở tận bên trời Âu như Hungary, Pháp cũng lặn lội đến Hoa Kỳ nhập bọn với chúng tôi. Gần hơn là từ Montreal (Canada). Cùng xứ thì có một số Phật tử ở Dallas, Houston. Còn phần lớn thì ngụ cư tại Nam, Bắc California.

Đến nơi thì bạn bắt đầu thấy nôn nóng rồi! Viêc di chuyển của đoàn cũng rầm rộ chẳng kém ai! Bạn nên nhớ, đoàn chúng tôi đông hơn 100 người nên đi đâu cũng phải có lộ trình di chuyển y như lực lượng lên đường hành quân tác chiến, theo cách so sánh “độc đáo” của thầy Hằng Trường. Phải công nhận là đường đi cũng khá gian nan. Đoàn xe bus ba chiếc chở chúng tôi, rời Thượng Hải từ sáng sớm, qua hai chuyến phà, chạy hơn nửa ngày trời, đến gần tối mới đến khách sạn.

Ở Mỹ đã hơn ba mươi năm và đây cũng là lần đầu tới Trung quốc, tôi xin chia sẻ cùng bạn vài hình ảnh mà theo ý riêng, tôi cho là “hết sức đặc biệt” khi chân ướt chân ráo đến xứ này.

Khi đoàn xe rời Thượng Hải, thành phố tiến bộ vào bậc nhất Trung quốc với những cao ốc và hàng vạn người nườm nượp di chuyển trên đường phố, đế nhập vào xa lộ, tôi thấy ngay trên xa lộ, bên tay mặt, hai chàng thanh niên đi hàng dọc, kẻ trước người sau, thong thả đếm bước. Lạ đời chưa! Ngay trên xa lộ rộng rãi và sạch sẽ, mỗi bên 3 lanes mà lại có người bộ hành thản nhiên chọn làm lối đi. Chưa hết, bạn à. Đến một đoạn khác trên xa lộ, tôi lại thấy một người đàn bà cầm chiếc chổi quét dọn mặt đương, chăm chỉ và bình thản như công việc hàng ngày! Bạn ơi, năm trước xứ này đã đưa được người lên không gian bằng phi thuyền Thần Châu 2; hàng năm còn bỏ ra hàng tỷ bạc cho việc nghiên cứu này, vậy mà trước mắt mình, vẫn có công việc vệ sinh xa lộ bằng chổi quét rác. Mới đặt chân đến nên tôi chưa dám lạm bàn nhưng những việc làm có vẻ nghịch lý xảy ra trên xứ sở này xem ra là điều khiến chúng ta không thể không chú ý.

Xin mời bạn trở lại với cuộc hành hương. Phổ Đà Sơn nằm trên một hòn đảo ngoài khơi Nam Hải. Lần đầu được chiêm bái, tôi niệm danh hiệu Ngài trước khi leo lên gành đá lớn hướng ra biển, cúi đầu đảnh lễ, cầu nguyện cho người ra khơi được thuận buồm xuôi gió. Khi đến Phạm Âm Động, nơi thờ Quan Thế Âm bồ tát cưỡi kình ngư, tôi cũng khấn nguyện và nhớ lại nỗi gian truân và niềm tin của người vượt biển. Niềm tin ấy, theo tôi, vẫn tồn tại nơi bao người dù đã qua cơn hiểm nghèo sóng dữ. Thánh tích này là cả một công trình kiến tạo từ mấy trăm năm qua trong đó chùa Phổ Tế là ngôi chùa xưa hơn cả. Cạnh đó là Phạm Vũ Tự, nơi Hòa thượng Vạn Phật thọ tỳ kheo giới trước khi đi hoằng hóa tại Hoa Kỳ. Ngài kiến tạo nhiều cảnh già lam, trung tâm dịch kinh sách, đặc biệt là ngôi Vạn Phật Thánh Thành ở Talmage, cách thành phố San Francisco khoảng 3 giờ xe. Chúng tôi cũng có dịp chiêm bái, cầu nguyện tại một số thánh tích khác. Xin kể bạn nghe, tại vùng đất Phật này, chúng tôi đã có dịp phát triển pháp môn “Tam Bộ Nhất Bái.” Thầy Hằng Trường cho biết đây là một truyền thống của Phật giáo Trung Hoa nhưng đến nay thì hầu như thất truyền. Hai vị sư huynh của Thầy là Hằng Thật và Hằng Triều từng thực tập “Tam Bộ Nhất Bái” từ Los Angeles về Vạn Phật Thánh. Đi ba bước lạy một lạy, hơn ba năm mới hoàn tất con đường mấy trăm dặm đó!

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0035

Tôi ghi lại đây một chút kinh nghiệm để bạn biết. Nhớ đừng cười tôi nhé! Trước khi đi, tôi đã chuẩn bị cho mình  nhiều thứ, sợ quỳ lạy trên đường đi liên tục như thế sẽ bị sưng đầu gối. Lỡ bỏ cuộc giữa đường thì sẽ bị chúng bạn chê cười. Chưa kể, quỳ lạy theo đúng pháp sẽ bị ngất xỉu không chừng. Ôi thôi, nhiều thứ để lo lắm. Vậy mà, như có Bồ tát phò hộ, hôm qua, liên tiếp thực hành pháp “Tam Bộ Nhất Bái” sáng chiều tổng cộng năm tiếng đồng hồ ở Pháp Vũ Tự và Phạm Âm Động mà chẳng hề hấn gì!

Đây là “bí kíp” của tôi. Không mang vật dụng tùy thân gì hết cho nhẹ mình, tôi cứ theo bước chân thầy Hằng Trường, để hết tâm thành vào việc cầu nguyện. Không nhìn ngang ngó dọc. Cũng không để ý đến những việc chung quanh. Chỉ nhất tâm đi thẳng, nhìn về phía trước, đặt hết niềm tin vào chư Phật, rồi lạy, lạy xuống sát đất. Trên đoạn đường thực hành  này, tôi lạy cho Mẹ tôi, tôi nghĩ đến Đạo Tràng Hayward thân yêu và cầu nguyện mọi người tinh tấn tu tập. Tôi cũng cầu cho mọi oán kết xa gần sớm được tiêu trừ, giải tỏa. Rồi có lúc, tôi thấy cảm kích mọi người, Thầy và Bạn.

Để tôi nói cho bạn biết đôi điều về pháp môn “bất nhị” này để xem bạn có duyên với pháp môn này không? Người dự pháp xếp thành hàng đôi, cùng tụng chú Đại Bi rồi lạy xuống. Tôi để ý thời gian quỳ lạy, khoảng ba hơi thở vào ra là thầy Hằng Trường đứng dậy. Mọi người có khoảng thời gian ngắn để niệm ơn Tam Bảo trước khi bước tới trước ba bước, đứng yên một lát rồi cúi đầu lạy xuống. Có vị trí ngay sau lưng Thầy Hằng Trường, nên tôi cứ bước tới đúng dấu chân Thầy mà lạy. Nhưng con đường hành lễ tam bộ nhất bái không phải dễ dàng. Từ tam quan chùa Pháp Vũ vào trong phải qua nhiều bậc cấp đá. Lại cả rừng người chen chúc đổ về lễ bái trong ngày vía Quan Âm, 19 tháng chín âm lịch. Tôi nghĩ bụng nếu không có sự can thiệp và trợ giúp hiệu quả của bà Vương Sảng và hai người phụ tá, Amy và Sophia, thì không biết chúng tôi làm sao có thể thực hành trọn vẹn pháp môn. Mặc cho khối người hành hương dầy đặc chung quanh, cô Amy cầm cờ hiệu phăng phăng dẫn đầu, bà Vương Sảng luôn miệng yêu cầu mọi người mở đường, tránh lối cho chư tăng và phật tử hành lễ. Tôi chỉ nghe bà nói cám ơn, cám ơn luôn  miệng mà lòng thì cảm ơn sự sốt sắng của bà. Thấy bà “tả xung hữu đột” giữa đám đông để mở lối cho đoàn hành hương làm lễ, tôi mường tượng đến hình ảnh một hiện thân Bồ tát. Bà là giám đốc công ty du lịch China Tour Inc. có văn phòng chính ở Bắc Kinh và Thượng Hải. Bà tự mình lo liệu mọi việc lớn nhỏ cho đoàn hành hương, và đi theo đoàn, lúc qua phà, lên xe, khi thì lội bộ. Bà nói tiếng quan thoại ngay cả với đoàn, chúng tôi không hiểu điều bà nói nhưng nghe giọng, nhìn ánh mắt là chúng tôi cũng hiểu được phần nào tâm ý bà.

Trên đường tam bộ nhất bái, tôi niệm danh hiệu Phật, cầu nguyện an lành cho người thân. Có lúc, tôi để tâm vắng lặng để tình thương thâm nhập. Những câu kệ tôi đã nằm lòng: Nguyện đức Cứu Khổ tầm thinh, ban cho nước tịnh rửa lành tham tâm. Mong cho thế giới xa gần, hết cơn binh lửa, thấm nhuần Từ Bi.

Rút thêm kinh nghiệm, ngày thứ hai thực tập pháp môn, tôi chỉ đắp y hậu, không mang theo bất cứ vật gì kể cả xâu chuỗi thường dùng, để hết lòng vào việc niệm hồng danh chư Phật.

Chặng đường tam bộ nhất bái khó khăn hơn cả là lúc xuống dốc, bạn à. Khi đó, sức nặng của toàn thân dồn về phía trước khiến mình phải vận sức vào đôi tay ấn xuống mặt đường để giữ thăng bằng. Tôi tìm  ra được cách “cải tiến” bằng cách vươn hai tay ra phía trước thật xa, kéo lưng về phía sau, nằm úp mặt xuống đất, thì sẽ thấy nhẹ nhàng, thảnh thơi.

Đến nơi, thì đứng dậy, tụng chú Đại Bi và bài Tam Tự Quy để hồi hướng công đức cho mọi người được thấm nhuần chánh pháp.

Ba ngày trôi qua, ngày nào cũng lạy, cũng trì niệm, tôi thấy lòng thanh thản khác thường. Mặc dù phải ráng theo mọi người đến hụt hơi trong chặng đường hành pháp tam bộ nhất bái, tôi hết sức hoan hỷ biết ơn Thầy, biết ơn Bạn đồng hành đã hướng dẫn, khích lệ.

Còn bạn muốn biết “nội dung” của một ngày hành hương về Phổ Đà Sơn thì đây là thời khóa của ngày sơ khởi để bạn chuẩn bị tinh thần. Sáng thức dậy lúc 5 giờ 40. 6 giờ, tập thể dục, luyện Càn Khôn Thập Linh trước sân khách sạn. Sau đó, đi bộ đến địa điểm có cây cổ thụ ngàn năm để thực tập Thiền Lạy. Ngồi thiền đến 8 giờ. Trở lại khách sạn ăn sáng. 9 giờ, rời khách sạn để thực tập tam bộ nhất bái đầu tiên trong ngày. 1 giờ 30 ăn trưa. Nghỉ ngơi 25 phút để tiếp tục thực hành pháp môn. 6 giờ chiều, dùng cơm tối. Đến Bách Bộ Sa, bãi biển phía trước để ngồi thiền, nhìn trăng lên, nghe Thầy giảng phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm. Thầy nói lưu loát tiếng Việt, Anh, Quan thoại, thỉnh thoảng lại xen tiếng Pháp nữa, gây được không khí thân mật, vui tươi trong buổi giảng. Cách nói chuyện của Thầy tôi gọi là “hí lộng ngôn ngữ” như bút pháp của nhà thơ Bùi Giáng thuở nào. Đến gần 10 giờ tối mới gọi là tạm xong một ngày. Tôi về phòng và leo lên giường ngủ một giấc ngon lành, lấy sức cho ngày mai.

Cho tôi sớm dâng lời tạ ơn Người, tạ ơn Đời cho chuyến hành hương này, một chuyến trở về với tâm linh giục lòng mình tròn câu hạnh nguyện.

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0036

Câu Chuyện Đôi Giày & Xâu Chuỗi

Tôi mang loại giày vải màu đen đó đã ba mươi năm. Còn xâu chuỗi màu đỏ luôn ở bên mình (không phải là loại mã não thứ thiệt đâu) cũng tròm trèm tuổi thọ như thế. Cho đến nay, cuối năm 2007 rồi, tôi vẫn chưa có ý định đổi giày hay thay chuỗi. Tôi có lập dị lắm không, xin em đừng cật vấn. Em cũng đừng vội nghĩ rằng mấy thứ tùy thân này của tôi cũ kỹ lắm rồi. Trái lại là khác.  Mỗi lần cầm xâu chuỗi trên tay hay xỏ chân vào giày, là những suy nghĩ mới mẻ đến bên tôi.

Chúng ta hãy nói chuyện đôi giày trước. Đôi giày, người bạn tốt của tôi, từ bấy lâu nay, có thấy phàn nàn hay than thở gì đâu? Mà thật ra, nhiều lúc, chúng ta cũng đáng trách lắm. Đôi giày theo ta trọn ngày, lên xuống bao đoạn đường, đến nay đã bạc màu, vẹt gót, vậy mà, khi về đến nhà, quen lệ, tháo vội giày ra, có khi vất đại vào một góc nhà, chẳng có một lời cám ơn “thank you” nào cho hợp với thái độ nhã nhặn thường lệ của ta! Riêng tôi, cũng may, từ khi thực tập thường xuyên chánh niệm, mỗi khi mang giày vào hay tháo giày ra, tôi đều nghĩ đến người bạn tốt và trung thành với mình, không quên cảm ơn và đặt giày ngay ngắn trên kệ.

Hôm trước đây, giở lại chồng hình ảnh cũ, cầm lên tấm hình “shoe parking lot” – khu để giày dép - chụp tại Trung tâm Phật giáo Hayward năm nào, rồi nhìn xuống đôi giày cũ trung thành của mình và những bài học gợi ra từ món tùy thân đơn giản này, điều ấy khiến tôi phải ngồi xuống bàn, cầm bút.

Từ năm 1986, chúng tôi đã bắt đầu thực tập Chánh Niệm với đối tượng đi theo bên mình là đôi giày hay dép. Nên, sau đó chúng tôi khởi sự việc hướng dẫn thực tập điều Chánh Niệm này với các em thiếu nhi đến Trung Tâm Phật giáo để sinh hoạt. Chúng tôi yêu cầu các em để giày dép thật ngay ngắn trong những ô vuông kẻ sẵn, trước khi bước vào “chánh điện.”

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0037

Từ đấy, trên thềm Trung Tâm là hình ảnh biểu tượng thật đẹp, phối hợp giữa biểu hiện sự ngăn nắp, trật tự của tập thể và, ý nghĩa hơn, thể hiện ý thức chánh niệm trong đời sống cá nhân. Tinh thần chánh niệm trên được duy trì cho đến nay khi chuyển tiếp sang chùa Phổ Từ mà nơi thực tập là những hàng kệ nhiều hơn và mỹ quan hơn.

Thực tập và thực hành chánh niệm đối với bất cứ đối tượng nào, không phải là ý thức hay hành động giai đoạn, của một lúc, trong một buổi. Trong chánh niệm, sau mỗi lần sử dụng, tôi biết tôi sẽ MỜI đôi giày của mình “nghỉ ngơi” ở đâu. Tôi cởi giày ra, đặt nhẹ nhàng lên kệ, và nhỏ nhẹ cám ơn giày. Ý thức và hành động như trên nghĩa là mình đang thực tập hạnh khiêm cung của Bồ tát Thường Bất Khinh. Nghĩa là bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đến sự trợ giúp, cưu mang tự muôn người, muôn vật, muôn loài. Suy nghĩ và hành động như thế, giáo lý độ sanh của nhà Phật không còn tồn tại trong những trang kinh trừu tượng mà thể nhập vào cuộc sống, hướng dẫn con người đạt được cuộc sống an lạc, có ý nghĩa.

Việc biết ơn đôi giày mà tôi vừa trình bày, em thấy có hợp lý lẽ không? Không khác gì trường hợp khát nước mà có được ly nước ngọt trên tay, kẻ phải đi chân trần giữa trời nắng chang chang trên đường nhựa nóng bỏng, sẽ thấy sung sướng chừng nào nếu có được đôi giày dưới chân. Cũng như, khi đi dự dạ tiệc, ngoài bộ áo sang trọng phải có thêm đôi giày vừa ý thì hạnh phúc đến với con người khi đó mới trọn vẹn. Trong thí dụ đơn giản như trên, chính đôi giày, là một trong những cái đem đến an vui trong cuộc sống hàng ngày cho ta. Giày có đáng được nhận một nụ cười, một lời thân tình nơi ta không chứ? Thanh you, shoes!

Giờ xin nói đến chuyện xâu chuỗi. Đây là chuyện liên quan đến việc tu hành, đắc đạo, lên niết bàn chứ không phải chuyện chơi đâu nghe! Hù em một chút thôi, chứ chuỗi nào, làm bằng gì, có quí giá đến đâu thì cũng chỉ là chút PHƯƠNG TIỆN thôi tuy không thể thiếu. Vì không có phương tiện thì làm sao đạt được cứu cánh. Với xâu chuỗi màu đỏ đó, tôi làm bạn với chánh niệm, với giây phút hiện tại. Khi cầm chuỗi trên tay, tôi có ý thức là mình đang có mặt với giáo pháp nhà Phật. Nói rõ hơn, đó là hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm với hạnh nguyện từ bi cứu khổ. Tôi niệm từng câu một, rõ ràng, và giữ tâm niệm Thương Yêu đối với vạn vật, với tha nhân trong đó có em nữa. Điều lợi ích rất lớn cho tôi là tôi đã biết cách nuôi dưỡng tâm niệm an lành cho thân và tâm của mình. Bớt đi những chuyện buồn phiền, lo lắng vô ích. Nhờ đó, mà không bị bệnh mất ngủ, không có đường cao, máu cao gì hết (có chứng cớ đàng hoàng đó nhe!)

Có một điều chẳng ai ngờ được đó là chuyện “giả đò”, “thực mà hư” của tôi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ. Ai cũng tưởng là khi cầm xâu chuỗi, người ta gọi là lần tràng, là lúc tôi nghiêm trang, để hết tâm vào câu chú nguyện. Không phải một trăm phần trăm đâu. Trong nhiều trường hợp, xâu chuỗi trở thành “cứu tinh” của tôi, giúp tôi thoát ra khỏi cảnh khó xử. Đó là những khi mình không muốn tiếp tục phải nghe điều mình không muốn, hay không muốn tiếp tục câu chuyện với người trước mặt. Trong hoàn cảnh chẳng đặng đừng như thế, thì chỉ còn cách cầm xâu chuỗi trên tay, lần từng hạt, vì đó là Dấu Hiệu của việc khởi đầu giây phút Linh Thiêng Tối Thượng của người tu hành mà người đối diện phải nhận biết và tôn trọng. Như vậy là tôi thoát nạn, khỏi phải tiếp tục nghe hay buộc phải nói gì nữa. Cứ ĐƯỢC ngồi yên là hạnh phúc rồi. Đó là một “chiêu thức” tạm gọi là phòng thân của tôi khi cần có sự yên tĩnh. Em có thấy những lợi ích thông thường lẫn kỳ diệu của xâu chuỗi trong tay chưa?

Tóm lại, tu tập là áp dụng điều Phật dạy vào trong những việc làm thực tiễn trong đời sống hàng ngày của mình. Cứ thực tập đều đặn, liên tục chúng ta sẽ cảm nhận được sự nhiệm mầu, oai lực vô song của Phật pháp. Hãy tập nhìn muôn người, muôn loài, muôn vật dù có hay không tri giác, hiện diện quanh ta, với sự hiểu biết và tâm niệm biết ơn của người con Phật. Đó là thí điểm và khởi điểm để tình thương và bao dung được khai triển, đem lại an lạc trong tâm mỗi người, phúc lợi cho tập thể.

Như thế, phải chăng hòa bình trên trần thế được gầy dựng từ sự thực hành trong chánh niệm những việc thực tiễn trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân chúng ta.

“Mình Còn Tu Dài Dài”

Giản dị nhưng chân thực không chỉ là nét đặc thù trong bút pháp Sư Ông mà trong cả câu nói, hay lời dặn dò của người nữa. Nếu như người đọc sớm làm quen được giọng văn mộc mạc đã làm nên phong cách người viết ngay tự tác phẩm đầu tiên “Tình Người” thì sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào về câu  nói không kém giản dị và thân mật trên thay cho lời chia tay của Sư Ông Nhất Hạnh sau khóa tu mùa Thu năm 2009 tại Tu viện Lộc Uyển, miền Nam California. “Mình còn tu dài dài.” Câu nói có vẻ bình dân kia sẽ mất đi vẻ bỡn cợt nếu ta bình tâm đặt nó vào đúng vị trí kết thúc của một khóa hành thiền mà theo quán lệ có ý nghĩa và giá trị một thủ pháp đánh thức tiềm năng đốn ngộ của người hành giả. Tôi đã đón nhận câu kết thúc khóa tu trên của Sư Ông như một lời sách tấn có ý nghĩa sâu sắc cho sự thực tập của riêng mình. Câu đó cũng được nhìn nhận như một công án thiền như trong tựa đề tập sách hai quyển, “bát nhã là một công án thiền” ghi lại sự việc xảy ra ở tu viện Bát Nhã, Lâm Đồng, Việt Nam.

Suốt những năm có mặt trong các khóa tu học, tôi thấy Sư Ông có thói quen ít nhiều mang phong cách thiền gia, chỉ nói vài câu khuyến khích chúng đệ tử trước khi bế mạc khóa tu mà không kêu gọi hồi hướng hay phát tâm gì cả.

Câu nói nửa như hờ hững nửa như xem nhẹ việc mà lớp người tu học chúng tôi đang hướng về với tất cả tâm ý đã là điều khiến tôi phải lắng lòng suy nghĩ. Nhất là câu nói trên được đưa ra sau biến cố xảy ra tại tu viện Bát Nhã Lâm Đồng, sự việc lay động đến tận thâm tâm chúng tôi trong nỗi bàng hoàng, ray rứt.

Nhớ lại ngày nào đi theo phái đoàn đến văn phòng bà Thượng nghị sĩ Barbara Boxer ở Oakland, California để trình bày vấn đề và yêu cầu lên tiếng. Tiếp theo là kêu gọi Tăng thân khắp nơi cầu nguyện cho huynh đệ tại quê nhà được yên thân, tiếp tục con đường tu tập pháp môn đã lựa chọn. Giữa những lúc tâm tư xao xuyến vì tình thế thực tại dồn dập như đang bủa vây trước mặt, bất giác tôi đã dàn trải xuống trang giấy những xúc động chưa kịp lắng đọng. Nghĩ rằng phiền muộn, lo âu, thắt buộc, rốt cuộc chỉ làm nặng thêm tâm tư nên chỉ mong nhường nhịn, bao dung, hiểu biết lẫn nhau mới là cách lựa chọn đúng đắn trước một vấn đề gần như nan giải. Bài thơ dưới đây là “tiếng nói trong lòng” của tôi vào những lúc “dầu sôi lửa bỏng” đó

Sáng hôm nay tôi nhìn qua khung cửa sổ

Thấy ngoài kia, trời trong sáng lạ thường

Xanh một màu xanh, không gợn áng mây

Gió đứng yên, và lòng tôi cũng lặng

Vừa thích thú, ngồi yên nghiền ngẫm

Và tiếp tục đọc thêm mấy dòng chữ trên những trang sách cũ

“Hãy thương yêu nhau, nhẫn nhục với nhau”

Hay quá, có được bài học đây rồi

Một thầy Lạt ma dạy người đệ tử

Nhẫn nhục, con ơi, đừng đả thương người

Cùng lúc, màn ảnh cũng hiện lên trên tâm trí

Nào biểu ngữ giăng, nào những dòng nước mắt,

Nào dòng chữ thân thương của huynh đệ xa xôi

Trộn lẫn vào nhau trong bản tin buổi sáng

Chứa đựng nhiều quyết liệt, đớn đau

Sao nỡ “đoạn tình Linh sơn cốt nhục”

Giờ đây tôi thấy mắt mình có thêm ngấn lệ

Chỉ mấy phút thôi mà tâm thức lại biến chuyển đến mấy vạn lần

Khi thương, khi buồn, khi ước mong có thần thông diệu lực

Hay “chiếc đũa thần” để xoa dịu những vết thương đau

Chắp tay cầu nguyện lên đức Bồ tát Nhiệm Mầu,

Tôi để yên cho một dòng nước mắt rất nhỏ nhoi, từ từ lăn xuống

Thầm mong những ai kia có lúc nghĩ lại

Cho biển Thái bình lặng sóng, mát tình người

Nhẫn nhục, vâng, tôi mong huynh đệ anh em thực tập

Nhìn cho sâu, thấy được tình người

Da vàng máu đỏ vẫn thật tươi

Vẫn còn đang chảy trong hình hài tứ chúng

Giòng máu Tuyết sơn, làn da Thích chủng

Nhìn lại đi: để thấy nhiều nét giống nhau

Những tâm tình của thuở sơ giao

Sơ tâm đó, thật vô cùng trong sáng

Không gợn tranh đua, chẳng thèm hơn kém

Chỉ biết Yêu Thương trong ý nghĩa thiêng liêng

Xin cùng bắt tay:

Nuôi dưỡng đạo tình, lại xin hãy nhớ lấy câu:

Bầu với bí cùng chung dòng máu

Nằm chung giàn, bò dọc bò ngang

Mưa cùng chịu, nắng cùng thấy nóng

Khi trổ bông, đơm trái, lại cùng vui.

Niềm vui hòa thuận.

Sang hôm sau, tôi lên thiền đường ngồi nghe bài pháp thoại cuối cùng trong khóa tu nhưng thực ra lòng còn ngổn ngang bao điều. Những điều vừa giải bày trong bài thơ là tâm khởi, là tính thiện trong những phút tâm hồn thăng hoa nhưng thực tại vẫn còn nguyên vẹn bao khó khăn chồng chất. Tôi nghĩ đến hoàn cảnh bức bách mà các huynh đệ nơi quê nhà đang phải tìm cách vượt qua, nghĩ đến giới hạn sức chịu đựng của con người dẫu nghị lực được trau dồi, nghĩ đến sức khỏe của Sư Ông, người gắn bó hơn cả với sức mạnh tinh thần và khả năng vững chãi của niềm tin nơi huynh đệ tại Bát Nhã. Lòng càng xao xuyến  khiến tôi không còn mấy chú tâm ghi nhận những lời giảng dạy của Sư Ông. Phút cuối, Sư Ông rời pháp tòa, tôi cũng như mọi người đứng dậy chắp tay ngang ngực và theo thông lệ, mắt dõi theo từng bước khoan thai của Sư Ông. Ra đến cửa chính, Sư Ông bỗng dừng lại, quay nhìn đám đông mà đôi mắt thật sáng như hướng về tôi, thốt lên một câu thật gọn: mình còn tu dài dài. Bỗng nhiên, tôi liên tưởng cung cách phát biểu của thiền gia khi muốn kết thúc lời giảng bằng cách khai thị người nghe trong một cử chỉ, một hành  động hay chỉ bằng lời nói uấn xúc. Câu nói rất mực bình dị và thản nhiên như trên giữa lúc tâm tư bao người còn căng thẳng trước tình hình bất lợi của anh em trong tăng thân bên nhà khiến tôi nghĩ đến ý nghĩa của câu vừa trao gửi và nhất là hoàn cảnh mà câu nói đơn giản đã nhất thời vang dội trong lòng mình. Thái độ xem ra thản nhiên và câu nói như dửng dưng của người giữa lúc ba động của tình thế dồn dập trong lòng tập thể tăng thân, thực ra đã mang ý nghĩa của việc khuyến  khích  thoát ly, rời bỏ tâm trạng bất lợi đó. Bởi vì lẽ nào chúng ta còn tiếp tục bám víu, còn trụ vào điều đã làm nên bất an, phiền muộn trong ta.

Nhớ lại những điều đã học nhập tâm rằng khi thực tập Phật pháp, điều khó nhất là giữ cho tâm mình an tịnh. Đặc biệt là trước những nghịch cảnh, chướng duyên, con người thường không giữ được bình tĩnh chưa kể còn phải đối phó trước sự cám dỗ, lung lạc thường xuyên của nhiều tác nhân khác. Nếu không nắm được phương pháp chánh niệm, nương vào hơi thở có ý thức, thì chúng ta dễ tạo nghiệp xấu, đem lại khổ đau cho mình và cho người khác.

Điều căn bản trong sự thực tập mà Sư Ông thường dạy là nắm giữ hơi thở có chánh niệm. Khi đi, biết mình đang đi, khi ăn biết mình đang ăn, và trụ tâm vào đó. Ví dụ như phần thực tập dưới đây, đã được Sư Ông giảng dạy cho đại chúng: “Hơi thở chánh niệm là một phép thực tập căn bản trong truyền thống thiền. Không mấy ai thành công trên con đường thiền tập mà không đi qua ngưỡng cửa này. Thực tập hơi thở có ý thức là mở cánh cửa chỉ và quán để đi vào thế giới của định và tuệ” (Sen búp từng cánh hé, Lá Bối xuất bản, 1994)

Như vậy, đây cũng là truyền thống tuệ minh sát, hay vipasana của Phật giáo Nguyên thủy hay Nam tông. Khi đi, mình niệm đi, đi, đi và chỉ nhớ đến chuyện đi thôi. Thậm chí, khi giận ai, mình cũng chỉ nhớ (hay niệm) đến tâm hành giận này mà thôi. Thực hành được như trên, mình sẽ tránh được những lúc mất bình tĩnh, nóng nảy và nguy hại hơn, dẫn đến bạo động. Đạt được điều này cũng là thực hành được phần CHỈ trong tinh thần thiền quán của tông phái Thiên thai, chỉ quán. Có thể dừng lại (chỉ) rồi, thì chúng ta mới có thể nhìn sâu (quán) được.

Sư Ông nắm vững phương pháp thực tập của các truyền thống, Nam tông cũng như Bắc tông nên cách diễn đạt dù qua sách vở, lời nói hay thực hành đều minh bạch, khúc chiết, dễ dàng lãnh hội. Riêng tôi, hợp ý hơn cả vẫn là bài giảng của Sư Ông cho học chúng xuất gia về tâm kinh bát nhã ở tu viện Kim Sơn. Hôm đó, Sư Ông cầm một chiếc lá trên tay, đi tới đi lui trước đại chúng đang ngồi yên ở thiền đường, nhẹ nhàng giải thích. Trong chiếc lá mỏng manh này người ta có thể hình dung ra chứa đựng cả mây trời sắc nước, chớp bể mưa nguồn nghĩa là những hoạt động của thiên nhiên, chúng nằm ngoài những nguyên tố vô cơ và hữu cơ tạo nên chiếc lá. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đây là bài học về vô ngã, về yếu lý của kinh Kim Cang. Ngẫm nghĩ kỹ , mới hiểu rằng, vạn pháp do tương duyên, tương sinh mà thành. Có cái này mới có cái kia. Không có mây, không có mưa thì làm sao cây kia lớn lên được mà đơm hoa kết trái. Như vậy, giữa cuộc đời này, tất cả vạn duyên có mối tương quan mới làm nên cuộc sống. Do đó, chúng ta cần trân quí sự sống, và tôn trọng sự có mặt của mọi loài. Khi thực tập được như vậy thì mình bớt chấp ngã, chấp pháp, chấp tướng, chấp có hay chấp không. Nghĩa là, mỗi cá nhân, nếu đứng riêng biệt ra, KHÔNG THỂ tồn tại với ý nghĩa hiện hữu. Sự liên đới giữa con người với tập thể với xã hội đã minh chứng rằng ngay cả những đóng góp tưởng như tầm thường, nhỏ nhặt hoặc nghĩ rằng phù phiếm, thực ra đều mang lại lợi ích chung hay làm cho cuộc sống có thêm ý nghĩa. Cũng trong suy nghĩ như trên, khi chúng ta cầu nguyện cho cô Malala, 17 tuổi, người trẻ tuổi nhất nhận giải Nobel hòa bình năm nay, được an lành, mau lớn học giỏi, cũng là việc bày tỏ sự quan tâm và tình cảm liên kết, hậu thuẫn của tập thể trước những thảm trạng về nhân quyền mà nhiều người không chỉ riêng ở Phi châu đang phải chịu đựng.

Điều cần ghi nhận thêm khi ký ức về năm tháng may mắn bên cạnh Sư Ông được dịp trở về cùng với niềm thầm hãnh diện trong lòng về một bậc Thầy lỗi lạc. Tôi đã tìm thấy trong vóc dáng mảnh dẻ của Sư Ông, khả năng hoạch định phi thường được thúc đẩy thường xuyên bằng ý chí, nghị lực vững vàng không kém. Trong suốt thời gian hành đạo có thời gian bằng chiều dài của một đời người, công cuộc hành thế của Sư Ông đều được ghi nhận ớ vai trò của người khai sơn, người đề xướng lẫn người đảm trách hữu hiệu hơn cả trong nhiều lãnh vực tôn giáo, văn hóa, xã hội, giáo dục. Riêng đây, chúng ta chỉ cùng nhau ôn lại sự có mặt và cống hiến của tổ chức Làng Mai trong ngót bốn chục năm qua, trong việc đóng góp vào việc thăng tiến đời sống tinh thần và phẩm cách con người trong xã hội mới, trong đó nỗ lực thúc đẩy việc tu học thường xuyên và liên tục là một trong những bằng chứng của sự cần thiết xây dựng năng lực cần thiết cho tứ chúng.

Trước hết, là những yêu cầu cần thiết đối với giới xuất sĩ nam và nữ tức là chúng xuất gia. Hàng năm đều có hai khóa An cư kiết Hạ và kiết Đông, mỗi khóa kéo dài đúng 90 ngày, tức là ba tháng, theo truyền thống từ ngày Bụt còn tại thế. Năm nay, 2014, dù Sư Ông đang còn ở trong bệnh viện, tứ chúng ở đạo tràng Mai thôn vẫn an cư theo thời khóa qui định quy tụ 290 đối tượng an cư trong khóa kiết Đông thuộc hai xóm Thượng và xóm Hạ. Con số nói lên sự vững mạnh của đạo tràng Mai thôn sau hơn 30 năm thành lập ở miền nam nước Pháp và đang trên đà phát triển tại nhiều nơi trên thế giới.

Nhưng, để cho đạo mạch được rễ sâu bền gốc, công việc không dễ dàng gặp được thuận duyên nếu không có năng lực vượt bậc, ý chí phi thường của người khởi xướng.

Đường đi của Làng Mai là những bước khởi đầu vững chãi vì được hoạch định thật chu đáo, tinh tế về nhiều mặt. Tôi còn nhớ ngày mới được Sư Ông nhận cho theo làm phụ tá trong các khóa tu trên tu viện Kim Sơn hồi thập niên 80, thời gian ngồi thiền được ấn định chỉ trong vòng 16 phút thôi! Vậy mà, Sư Ông còn dặn tôi, đừng vội vàng buộc mọi người ngồi lâu, họ sẽ đau chân rồi bỏ cuộc, tốt hơn mình hãy từ từ giúp cho họ nếm được hương vị của thiền tập. Sư Ông giảng dạy theo cách rất đơn giản, trước hết là bài kệ :

Thở vào tâm tĩnh lặng,

Thở ra miệng mỉm cười

An trú trong hiện tại,

Giờ phút đẹp tuyệt vời.

(Sau này, đổi thành giây phút đẹp tuyệt vời)

Qua mấy năm liền, vẫn là thời gian thực tập ngồi thiền nhưng mỗi năm có bài kệ mới, phương thức mới, tạo nên không khí mới giúp thiền sinh từ từ từng bước đi vào ngôi nhà đầy hoa thơm cỏ lạ của đạo Phật.

Tôi nhớ có lần Sư Ông bảo tôi chuẩn bị cho buổi Pháp thoại theo nghi thức. Thú thật, tôi chưa hiểu hết ý Sư Ông mà chỉ vâng lời sắp xếp công việc như thường lệ. Đến sáng hôm đó, tôi và những người tham dự đều ngạc nhiên. Sư Ông đã thay đổi không khí quen thuộc của buổi pháp thoại bằng việc biến cải phút thiền tọa thành một nghi thức mở đầu tạo phấn chấn tinh thần cho mọi người. Phần nghi thức kéo dài hơn 30 phút trước khi sư Ông bước lên pháp tòa nói câu đầu tiên ! Điều xem như nhỏ nhặt trên xét kỹ là công việc chuẩn bị tinh thần, tâm lý cần thiết cho hàng thính chúng  mà chỉ người lịch duyệt mới nhận ra. Có mặt trong thời gian đó với thính chúng, tôi mới thấu hiểu tâm ý của Sư Ông là cần gây được cho người nghe một không gian tĩnh lặng và một tâm hồn bình an dễ dàng tiếp nhận mới là việc làm trước nhất. Do đó, tôi nghĩ rằng trong mọi trường hợp, nhất nhất cử chỉ, hành động, lời nói của Sư Ông, nhất là trong buổi giảng, điều được cân nhắc trong mục đích gửi gắm thêm một lời dạy, làm xúc tích thêm ý nghĩa trao truyền. Câu nói Tu dài dài cũng không là ngoại lệ nhất là được đưa ra vào lúc mà việc hóa giải nghịch duyên đòi hỏi tăng thân chúng ta cần phải nỗ lực tu trì, thực tập trong bất cứ lúc nào, nơi nào mà mình có ý thức với giây phút hiện tại. Tu dài dài còn có nghĩa là việc tu tập cần liên tục, không thu hẹp trong một đời mà cần tiếp tục trong trăm đời ngàn kiếp nữa. Phải liên tục như vậy thì mới thoát khỏi sanh tử luân hồi, dứt bỏ mọi ràng buộc, để được tự tại giải thoát, rồi với hạnh nguyện lợi sanh mà trở lại cõi ta bà, thõng tay vào chợ, cứu giúp chúng sanh, hoàn tất hạnh nguyện độ đời của mình. Đây thật là ý thức về một tiến trình lâu dài của công cuộc chuyển hóa được khai mở bằng lời dạy ngắn gọn của bậc đạo sư để chúng ta tin tưởng mà dấn thân trên đường tu tập.

Lời dạy của Sư Ông ngày ngày vẫn vang vọng trong tôi cùng với tiếng chuông buổi công phu sáng tối. Gần đây, năm 2013, tức là 4 năm sau, Sư Ông lại ban cho bức thư pháp với hàng chữ : công phu nở đóa sen ngàn cánh. Nét chữ đem theo phong cách đĩnh đạc, trầm tĩnh, an nhiên của người viết, với tôi, luôn luôn như nhắn nhủ quý báu bên tai, « cố gắng tu tập cho giỏi nghe. » Giữ công phu đều đặn như nước từng giọt nhỏ xuống thì có ngày nước sẽ đầy chum.

Bạch Sư Ông, chúng con vẫn thường nghe lời dạy bảo của Sư Ông để tu tập trong đời sống hàng ngày, để đền đáp phần nào công ơn giáo dưỡng như trời cao, biển rộng của Sư Ông. Dù xa xôi, cách trở nhưng tình thương của Sư Ông vẫn tỏ rạng trong lòng chúng con, và chúng con cũng luôn quán chiếu để thấy Sư Ông vẫn có mặt bên chúng con trong mỗi phút mỗi giây của cuộc sống.

Anh VÕ VĂN TƯỜNG

50 năm bên ống kính nghệ thuật

Nếu xem việc người ta có thể theo đuổi, hơn nữa, gắn bó một đời với công việc mình say mê là điều hạnh phúc thì điều này hiếm có hơn với trường hợp của nhà nhếp ảnh Võ Văn Tường, người đã phát hiện, ghi nhận và đặc biệt cống hiến cho đời những góc cạnh của đời sống tín ngưỡng tâm linh trong đó Phật giáo và sự hiện diện của ánh đạo từ bi trên quê hương và tại những nơi anh đặt chân, là một chủ điểm trong chặng đường cống hiến cho nghệ thuật dài nửa thế kỷ của anh.

Tình cờ, tôi được biết Anh trong một buổi sinh hoạt của Hội Từ Bi Quán Thế Âm nhằm gây quỹ giúp người tàn tật, trẻ mồ côi, những người không được may mắn.

Với chiếc máy ảnh quen thuộc trong tay, anh đã đưa những sinh hoạt mang nặng từ tâm đến với bao người trên trang nhà. Những bức hình chẳng những chất chứa ý nghĩa của một hành động tương trợ mà còn mang theo nét hoan hỉ rạng rỡ trên mặt người nâng máy. Nhờ hoạt động trên được phổ biến rộng rãi, trong đó những hình ảnh do anh thực hiện hẳn đã góp một

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0038

phần không nhỏ tác động đến việc hình dung ra một công việc hình dung ra một công việc từ thiện cần được thúc đẩy và đóng góp mà từ đó Hội đã nhận được sự yểm trợ rộng rãi về nhiều mặt và sự góp công góp sức của nhiều mạnh thường quân xa gần.

Nhưng, như đã nói, anh không thu  hẹp phạm vi hoạt động trong địa phương mà có mặt tại nhiều nơi, những nơi mà đời sống văn hóa xã hội của người Việt được khơi nguồn, phát triển trong đó sự có mặt của những ngôi chùa kèm theo những sinh hoạt tâm linh, văn hóa là một trong những đặc trưng. Tương tự thời gian ở quê nhà, nơi anh từng nhiều phen lặn lội từ Bắc xuống Nam nhằm góp phần đem lại một phác họa chân xác sự hiện diện một mạch văn hóa dồi dào của quê hương được thể hiện bằng hình ảnh những ngôi danh lam cổ tự.

Thực vậy, thời gian vừa qua, hai cha con anh cùng lái xe đường trường qua nhiều tiểu bang ở Bắc Mỹ để thu thập hình ảnh các khóa Tu học Phật Pháp, sinh hoạt trong đại lễ Phật Đản, Vu Lan, các buổi đại hội của các tổ chức Phật giáo. Gần đây, một cống hiến mà tôi để tâm, thán phục là tập “chùa Việt Nam Hải Ngoại”, tập 1, vừa được anh cho ra đời, do nhà xuất bän Hương Quê ở San Jose, California ấn hành và phân phối rộng rãi trong mùa Vu Lan. Sách dày trên 700 trang,

 

 

viết bằng 4 thứ tiếng Việt, Anh, Hoa và Nhật. Nội dung ghi lại bằng hình ảnh lịch sử và hoạt động của 72 ngôi chùa ở hải ngoại như trong lời giới thệu “Mỗi chùa, có thông tin về địa chỉ, điện thoại liên lạc, và bài giới thiệu lịch sử ngôi chùa, bài trí tượng thờ… cùng nhiều hình ảnh về kiến trúc, điện Phật, về sinh hoạt Phật sự trong các ngày lễ Tết hàng năm…” Như thế, chỉ riêng về mặt tài liệu, sách trên đã là một đóng góp đáng kể vào việc tìm

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0039

hiểu lịch sự Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn đặc biệt nhất, đó là sự hình thành tổ chức có hệ thống của Phật giáo ở hải ngoại.

Với chúng ta, đóng góp trên của anh Võ Văn Tường không chỉ có ý nghĩa một nỗ lực hoằng pháp trên phương diện nghệ thuật mà còn là chứng tích văn hóa trên một chặng đường phát triển của một cộng đồng di dân nhằm góp phần vào việc tạo hiểu biết lẫn nhau để tiến tới cảm thông, hòa hợp. Thật vậy, tập sách trên ngoài công dụng góp phần xiển dương nền tảng đạo đức dân tộc qua những giá trị nhân bản vị tha của nhà Phật và còn là tập tài liệu giới thiệu với người ngoại quốc những nét văn hóa đặc thù của một dân tộc. Sự ra đời của cuốn sách còn khiến ta không quên thiện ý và cố gắng vượt bực nơi anh Từ Hiếu Côn, giám đốc nhà xuất bản, để sách có thể dễ dàng đến tay người đọc với mức giá 40 Mỹ kim.

Ngồi nói chuyện với anh, tôi như có được cảm thông đặc biệt với con đường anh đã đi qua và niềm đam mê làm nên nghệ thuật. “Con bắt đầu chụp hình từ năm 1964 Thầy à. Ban đầu chỉ làm mà chơi thôi, nhưng lần lần thấy thích, nhất là được sự yểm trợ của gia đình, nên con tiếp tục cho đến bây giờ, 50 năm rồi, thời gian trôi qua cũng mau thật…” Anh kèm theo nụ cười, không biết đã mãn nguyện chưa nhưng trông rất hiền từ, nhân hậu. Nhiều lần gặp anh bàn về chuyện thông  tin đại chúng, vài chương trình văn hóa nhất là nhằm giới thiệu đạo Phật với xã hội Tây phương, lần nào cũng thấy anh sốt sắng, hoan hỷ hợp tác với tôi.

Chưa nghe anh phàn nàn điều gì cả. Anh chỉ ao ước có sự ủng hộ rộng rãi hơn để thực hiện kế hoạch in sách “Chùa Việt Nam hải ngoại” tập 2. Tôi cũng hơi “bạo gan” khi góp ý với anh: Xin anh đề nghị nhà xuất bản, lần tới, khi liên lạc với chùa nào, thì xin Chùa đó ủng hộ trưóc cho vài chục cuốn thì chắc sẽ có đủ vốn in…” Anh vẫn cười cười, trả lời khiêm tốn: “Con cũng mong vậy. Được như sư ông Kim Sơn, hay ôn Thông Hải, ôn Nguyên Siêu, thầy Nguyên Tạng hay một số chư Tôn Đức khác… ủng hộ mạnh mẽ như vừa rồi, thì chúng con rất yên tâm làm việc… Và anh vẫn giữ nụ cười, “có Thầy thường khuyến khích thì con vui rồi.”

Duyên lành gặp gỡ anh và đôi lần hỗ trợ anh trong khả năng cho phép chính vì phần lớn bắt nguồn từ sự cảm mến lòng nhiệt thành và khả năng nghệ thuật thể hiện trong tập “Việt Nam – Danh Lam Cổ Tự” (1992).

Lòng say mê nghệ thuật và những khó khăn để thể hiện được điều muốn ký thác trong tác phẩm khiến cho tôi, vốn đã có một số kiến thức mỹ thuật nhiếp ảnh ban đầu ở nhà trường, hiểu được những đòi hỏi cần thiết nơi người nghệ sĩ để có thể tạo được sự cảm thông của một tác phẩm nghệ thuật.

Năm xưa, tôi còn có duyên may được tiếp xúc với bác Trần Cao Lĩnh tại chùa Từ Quang, San Francisco, khám phá ra khả năng giao cảm của nghệ thuật khi ngồi trước tấm hình bác chụp, “đôi giày trận nằm lăn lóc trên bãi cát trắng.” Bất giác, tôi tưởng như “thấy” lại những đồng đội của mình ngày nào đã nằm xuống cho quê hương, những hy sinh cao cả vô cùng. Không ngờ nay lại may mắn gặp được một người cầm máy hữu danh như anh Võ Văn Tường, làm hàng xóm với gia đình anh tại nơi mình đang định cư và được hân hạnh thưởng thức những tấm hình do anh Tường chụp để lưu lại dấu vết của Phật giáo nước nhà trên xứ người.

Nghệ thuật chân chính thường ở lại với đời lâu dài hơn một đời người. Năm nay anh đã ngoại 60 nhưng chắc chắn là những bức hình anh làm nên, những tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa ấy, sẽ lưu lại trong đời sống văn hóa của cộng động trong mai hậu. Xin kính lời chúc mừng đến Anh và xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ, kính thương và cầu chúc Anh và Gia đình nhiều an vui, mạnh khỏe.

Cảm Niệm

Trước linh sàng nghi ngút khói hương, người học trò nhỏ, đại diện cho tứ chúng đang tu học tại chùa Phổ Từ, tiểu bang California, xin kính cẩn cúi đầu bái lạy giác linh Sư Ông, hoan hỷ cho con có đôi lời bộc bạch.

Kính bạch Sư Ông,

Con không hút thuốc, nhưng xin dâng một điếu để Sư Ông nhàn lãm.

Con không rành chuyện văn chương, vì vậy, xin cung kính đọc lại lời phát biểu ứng khẩu của Thầy, vào 10 năm trước, ngay ở chốn này để Sư Ông mỉm nụ cười hiền, trách nhẹ, chú này nhiều chuyện: “Những gì tôi muốn nói thì hòa thượng Tâm Châu đã nói, Những gì để cầu chúc cho quý Anh Chị thành công thì thầy Chính Tiến thân thuộc nhất của quý Anh Chị trong vai trò cố vấn giáo hạnh  cho đến gia trưởng cũng đã nói. Cả hai người đã nói đến tất cả. Riêng tôi, chỉ mong sao lần hội ngộ này, quý Anh Chị vạch ra con đường: Làm sao thích hợp với hoàn cảnh phương tiện của mình. Làm sao đáp ứng được yêu cầu của các Em ở trong nước và làm sao đáp ứng được tổ chức Gia đình Phật tử Việt nam ở hải ngoại. Gia đình Phật tử phải là một cơ cấu giáo dục, cơ cấu giáo dục hoàn thiện, cơ cấu giáo dục hoàn toàn không mang màu sắc chính trị, màu sắc cá biệt. Nhất là trên đất Mỹ này, chỉ những tổ chức nào đáp ứng được những yêu cầu, những nhu cầu khẩn thiết của thời đại và đất nước Mỹ thì tổ chức đó luôn sống và vững tiến trên con đường thực hiện những chương trình của họ.”

Lời thầy rõ ràng, sáng suốt, vạch ra con đường cho chúng con đi. Lời thầy khiêm cung, nhỏ nhẹ lại gói trọn sự chân thành, tha thiết, đầy thương yêu của kẻ dẫn đường, của bậc đạo sư.

Nhớ lại năm nào: Không có những lời khuyến khích của Thầy trong Đại hội kỳ trước ở tại Pháp Quang, chắc gì “Đậm Nét Tình Lam” có cơ may góp mặt với Đời?

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0040

Từ đây, thiếu bóng hình Thầy, việc (con Đường) Hợp Nhất không biết có ngày nào thành tựu được?

Con bối rối vô cùng. Con bồi hồi xúc động khi nhận tin Thầy cỡi hạc về Tây. Sư Ông ra đi, ở tuổi thất tuần, đã yên danh yên phận. Chúng con  lại biết trông cậy vào ai? Ngó trước nhìn sau, ôi! Cô quạnh, cả một bầu trời cô quạnh.

Mình hạc xương mai, căn nhà cũ nằm yên chờ đợi chủ, văn chương bác học, cất tiếng lên như hổ rống rồng gầm, phất cao cờ Hoa Sen Trắng, vì đàn em mà xây dựng tương lai. Hình bóng đó như vẫn còn lảng vảng, lời khuyên này tợ thước ngọc khuôn vàng. Một bậc chân tu. Một đời khổ hạnh. Sư Ông ơi, hạ lạc phương nào? Cho chúng con được cúi đầu, còn có cơ hội nghe lời dạy bảo. Cho chúng con nối bước hạnh nguyện cao quý của Thầy. Vì đạo, vì đời, vì tương lai tuổi trẻ, ta đi lên trong tiếng hát oai hung – Hoa Sen Trắng, muôn đời Hoa Sen Trắng. Vui tình Lam, muôn thuở, có tình lam. Chúng con xin ăn mày lộc Phật, thành kính đảnh lễ tạ ơn Thầy.

Nam mô từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập tứ thế, Đệ nhất Phó thượng thủ Giáo hội Phật giáo (Tăng Già), Việt Nam Trên Thế Giới, Tọa chủ chùa Pháp Quang, Trung tâm Phật giáo Khuông Việt, Cố Vấn Giáo Hạnh Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ, húy thượng Trí hạ Hiền, Đại lão Hòa thượng Giác linh.

Đôi Lời Tâm Tình Với Người Bạn Đồng Tu

Kính cẩn nhớ về Thầy Minh Tân, Giáo thọ chùa Việt Nam ở Houston, 5 giờ rưỡi sáng, giờ Cali, ngày thứ Tư, 5-2-2014.

Thầy Minh Tân thân mến,

Thực lòng tôi muốn mở lời như thế cũng như những lúc chúng ta còn có thể đối diện đàm tâm, vì nếu xem vạn vật là vô thường, cuộc sống vốn tạm bợ thì dẫu Thầy có ở đâu, an trụ tại phương nào thì với ý niệm “phát túc siêu phương, tâm hình dị tục” mà anh em mình đã phát nguyện ôm giữ trọn đời, thì thế gian này cũng chỉ trong một “hột bụi, - mao đầu thượng”, cả hư không cùng nằm gọn trong đó!

Nghĩ thế và nhiều khi tâm nguyện như thế nhưng thực tế đối với người còn ít nhiều tương quan với cuộc sống thế nhân khi đọc được tin KHẨN BẠCH từ chùa Việt Nam đều thấy bàng hoàng, xót xa trong lòng trước sự cách biệt, Thầy à.

Sáng nay, thức dậy sớm, sau phút cầu nguyện, tôi viết vội đôi dòng để nhớ về một đoạn đường chúng ta đã cùng đi qua với nhau trong sự thân thương, trong tình nghĩa của những người xuất gia đầu Phật.

Lần sơ ngộ, Thầy lái chiếc xe mà Thầy gọi là chiếc xe “cà tàng” ra đón tôi ở phi trường Houston về chùa Việt Nam, cách nay cũng trên dưới 20 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ rõ. Giọng cười, lời nói chân chất miền Nam của Thầy để lại trong lòng tôi rất nhiều cảm tình, quý mến. Gần nhất là, hôm lễ hội Quan Âm 2013 vừa rồi, tôi cùng thiện tín, ngồi nghe Thầy điều khiển một tiết mục trong chương trình lễ hội. Tôi để hết tâm lắng nghe Thầy. Nhìn lên, vóc dáng của Thầy có đầy đặn hơn, còn nước da thì vẫn ngăm ngăm như trước. Nghe  cho kỹ lời Thầy nói mới hiểu rằng, ý tứ là của Ôn Viện chủ chùa Việt Nam gợi ra, mà ngôn từ thì phát xuất từ tấm lòng nhiệt thành của Thầy. Ý và Lời quyện vào nhau, cộng hưởng trong lòng người dự hội. Tôi thấy thật mừng cho ngôi nhà Phật Pháp khởi sắc, rạng rỡ giữa rừng cờ năm sắc trong đó lòng muôn người thiện tín cùng tâm thành hướng về đấng Mẹ hiền Cứu khổ, người nguyện đời đời làm vơi nỗi khổ chúng sanh.

Hình ảnh ngôi chùa Việt Nam ở thành phố Houston với tôn tượng Quán Thế Âm vươn lên giữa khoảng trời bao la, đã, đang và mãi là một biểu tượng cho đức tin truyền thống và lòng hướng thiện của người Việt Nam chúng ta nơi xứ người. Thầy có phần đóng góp bàn tay, tấm lòng của mình cho công việc xây dựng và xiển dương tinh thần ấy. Riêng về phần mình, tôi thấy, trong đời xuất gia, trong tình nghĩa Linh Sơn cốt nhục, tôi đã có duyên ĐƯỢC hạnh ngộ một người bạn đồng tu như Thầy.

Trong lễ hội, còn có Thầy Nguyên Đ. “tả xông hữu đột” và với “thập bát ban võ nghệ”, món nào cũng “điêu luyện”  cả, làm kẻ khách tăng như tôi thấy nức lòng và cảm phục vô cùng. Mới thấy chữ Duyên của nhà Phật thật là mầu nhiệm khiến ôn Viện chủ có được đầy đủ “tả phò” cùng “hữu bật.”

Sáu tháng trước đây, tôi tình cờ đọc một bài viết trong tập Kỷ Yếu, một em Huynh trưởng GĐPT viết về sinh hoạt ở chùa Việt Nam, phần chính yếu viết về Ôn Viện Chủ nhưng chẳng quên vai trò và trọng trách mà Thầy đảm đương trong tự viện. Trong bài, Ôn đáp lời Phật tử rằng: “Việc này, thì quý vị đi tìm thầy MinhTân giúp cho ý kiến”. Thực vậy, trong nhiệm vụ giáo thọ, Thầy đã hoàn thành công việc xiển dương chánh pháp, giáo lý Phật Đà trong mọi giới tu học, xuất gia cũng như tại gia, góp phần đem ánh sáng từ bi, trí huệ đến với mọi nơi cảm thấy cần thiết.

Hôm nay, tôi đọc lời cáo phó trên màn ảnh đồng thời như thấy hiện ra trước mắt hình ảnh, phong độ, cung cách một người trưởng tử của Như Lai với giọng dõng dạc, nhiệt thành nhưng không thiếu ân cần, từ tốn, khơi dậy được nơi thâm tâm người nghe một niềm tin vào con đường đi đến chánh pháp.

Bây giờ Thầy đi xa rồi.Vậy là chúng ta không còn có dịp ngồi bên nhau, uống một tách trà, bàn câu chuyện đạo lý trên đời, khi tôi có dự định về chùa Việt Nam vào tháng 4 này. Nhưng, Thầy có biết chăng tuy lặng lẽ ra đi nhưng còn lưu dấu thiền cơ! Nói như vậy để thấy mà mừng là hạnh Bồ tát của Thầy nhờ đó cũng sẽ thêm phần viên mãn.

Hôm trước, thầy Nhựt H. ở San Jose đã làm tôi “giựt mình.” Giờ lại tới phiên Thầy nữa! Cái nghĩa hai chữ vô thường mình đọc hàng ngày, thuộc lòng như cháo, nhưng lắm lúc lại có thể vô tâm hay khinh xuất, coi chừng, sư ông  lại quở nữa đây! Mới đây thôi, sau khi tạm xong việc xây cất ngôi chùa ở thành phố, tôi mới có quyết tâm là mỗi ngày phải dành một giờ đi bộ, một giờ ngồi thiền, để phần nào săn sóc sức khỏe. Thực vậy, nói cho cùng, chư đệ tử Phổ A, Phổ B, dù có thương mình đến mức nào, có chịu khó dành thì giờ cho ngày ba bữa ăn, có san sẻ phần nào công việc đa đoan của nhà chùa thì cũng không thể hiểu được lục phủ ngũ tạng của mình hoạt động ra sao, hoặc gánh lấy nghiệp quả tốt xấu thay cho mình được. Đúng như lời sư phụ tôi, sư ông Kim Sơn, mới dạy hôm qua: huynh đệ có cơ hội gặp nhau trong ngày đầu năm, ăn với nhau bữa cơm chung, sinh hoạt với nhau trong tình Đạo của người xuất gia, là thời gian quý báu và lợi lạc nhất. Nhớ lại lời sư ông Làng Mai dạy thì càng thấy chí lý thêm nữa: hãy lắng nghe nhau, có mặt cho nhau. Điều đó có nghĩa, chúng ta nên gắn bó, vui vẻ với nhau, và nhất là, cần có thời giờ để CHĂM SÓC THÂN TÂM của mình.

Thầy “Giáo Thọ” Minh Tân, bạn hiền thân mến,

Theo dõi chương trình tang lễ, như vậy, giờ này, Thầy đã nằm yên ở Chùa rồi. Không có thiên nhãn để thấy, nhưng lấy lòng mà nhìn, tôi cũng thấy được hình ảnh Ôn Viện chủ trầm ngâm bên khói thuốc bay cao diệu vợi. Thấy quý Thầy, Sư cô và Phật tử xa gần thành tâm tụng niệm, dâng lời cầu nguyện cho Thầy về cõi Phật, rồi hội nhập cõi ta bà, lại tiếp tục “kiến pháp tràng ư xứ xứ, phá nghi võng ư trùng trùng, hàng phục chúng ma, thiệu long tam bảo, thừa sự thập phương chư Phật, vô hữu bì lao, tu học nhất thiết pháp môn tất giai thông đạt.” Tôi tin tưởng, mình lại gặp nhau đâu đó trên cuộc đời này, Thầy à. Hiểu như thế, chúng ta có mất nhau đâu mà buồn, có thiếu nhau đâu mà tiếc, phải không Thầy? Sá chi suy thịnh việc đời, Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành. Hoàn cảnh xa xôi, xin Thầy hoan hỷ cho tôi không về được, nên xin nhờ một Huynh trưởng GĐPT Huyền Quang thắp cho tôi một nén nhang trên bàn thờ, trước di ảnh của Thầy, như là một hành động tiễn biệt, cầu nguyện cho Thầy cao đăng Phật quốc.

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0041

Người Phật tử Tại Gia

Về mặt tổ chức và ngay cả trong việc hành hoạt, Phật giáo cũng như nhiều cộng đồng tôn giáo khác đòi hỏi sự kết hợp cộng tác của hai thành phần tăng lữ và thế tục. Từ buổi sơ cơ, một hình thức tập hợp tạm mệnh danh là giáo đoàn do Đức Thế Tôn chủ vị quy tụ đủ bốn chúng thuộc hai giới xuất gia và tại gia, đó là: tỳ kheo và cận sự. Tỳ kheo, tỳ kheo ni là người thuộc giới xuất gia, và cận sự nam, nữ tức là nam nữ cư sĩ là những người tại gia giữ giới và tu học.

Như thế, ngay từ hình thức giáo đoàn nguyên thủy, không chỉ thể hiện sự phân công, phân nhiệm về mặt tổ chức mà còn là sự kết hợp cần thiết để mọi sinh hoạt, hoạt động tu tập, thực tập, truyền bá được tiến hành có hiệu quả để từ đó đạo Phật có cơ thấm sâu vào lòng người, đóng góp vào việc xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần, đạo đức, tâm linh chung cho nhân loại như chúng ta đã thấy ngày nay. Do đó, sự tồn tại và phát triển chánh pháp là nỗ lực chung của tứ chúng. Nếu thành tựu ghi nhận được là điều khích lệ chung của mọi người thì những thử thách nếu có, cũng là trách nhiệm chung mà hai giới xuất gia và tại gia phải đảm nhận. Đây là nền tảng của sự hợp tác trong việc xây dựng và phát triển chánh pháp bao gồm sự đóng góp của nhiều thành phần thuộc nhiều lãnh vực trong đó có tổ chức Gia Đình Phật tử chúng ta. Khi ý thức được vai trò, nhiệm vụ của mỗi giới xuất gia hay tại gia, chúng ta sẽ đạt được sự TƯƠNG KÍNH, TƯƠNG TRỢ trong tương quan hợp tác.

Nhằm góp thêm chút ý kiến cho trại Huyền Trang, bài viết này chỉ nhắm đến vị trí và sinh hoạt của người Phật tử, là những người ngoài việc theo đuổi việc thực hiện mục đích mà tổ chức ủy thác còn có những điều kiện Thuận Lợi cho việc tu tập Bồ tát hạnh.

Theo dõi lịch sử truyền bá Phật giáo, không ai có thể phủ nhận sự đóng góp rất lớn của giới cư sĩ tại gia. Những tên tuổi như Tâm Minh (Lê Đình Thám), Chánh Trí (Mai Thọ Truyền) tại Việt Nam hay ở nước ngoài như Christmas Humphrey, Richard Gere đã làm rạng rỡ vai trò và vị trí người Phật tử tại gia trong công cuộc xiển dương đạo pháp. Riêng trong tổ chức Gia Đình Phật Tử chúng ta, sự tận tụy đóng góp không mỏi mệt của mấy thế hệ huynh trưởng, điển hình là các anh chị Như Tâm (Nguyễn Khắc Từ), Tâm Chánh (Hoàng Thị Kim Cúc)... nên ngày nay chúng ta có được một đoàn thể giáo dục thanh thiếu niên có phẩm chất và được tin cậy.

Như Anh Chị đều rõ, việc xác nhận khả năng đóng góp cũng như vai trò cần thiết của người cư sĩ tại gia trong công cuộc xây dựng, phát triển đạo pháp là sự quan tâm thường xuyên của không ít vị trong giới xuất gia. Nay, nhân trại Huyền Trang, với tâm tư của một người xuất gia thường lưu tâm và ưu tư đến sức mạnh của tinh thần hợp tác, tôi xin được giới thiệu hai tài liệu tôi thấy rất bổ ích, mời quý Anh Chị đọc thêm để tìm hiểu. Đó là: 1/ Người Tại Gia của HT Trí Quang và 2/ bản kinh Người Áo Trắng do Sư Ông Nhất Hạnh dịch.

Trong bài này, tôi chỉ xin chia sẻ với quý Anh Chị 2 điểm chính, đó là: sự Tu tập để thấm nhuần Phật pháp, và tinh thần Đóng góp của giới Cư sĩ.

<![if !supportLists]>1.      <![endif]>THỰC TẬP PHẬT PHÁP

Trước hết, nói về sự tu tập thì căn bản của người Phật tử tại gia là pháp Tam quy và Năm giới cấm. Mời quý Anh Chị đọc một đoạn trong bản dịch của kinh Người Áo Trắng nói về sự thực tập 5 Giới người Phật tử tại gia:

Xá Lợi Phất, vị đệ tử áo trắng hộ trì năm giới pháp và tu tập bốn tâm cao đẹp như thế nào?

- Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự giết hại, chấm dứt sự giết hại, buông bỏ khí giới, biết hổ biết thẹn, tập từ tập bi, bảo hộ cho mọi loài sinh vật, kể cả các loại côn trùng. Vị ấy diệt trừ tận gốc tâm niệm giết hại.

Đó là giới pháp thứ nhất mà người đệ tử áo trắng hộ trì.

- Vị đệ tử áo trắng xa lìa sự không cho mà lấy, chấm dứt sự không cho mà lấy, thường ưa bố thí, tìm niềm vui trong sự bố thí và bố thí mà không cầu đền đáp. Vị này không bị tâm trạng tham lam che lấp, luôn luôn bảo hộ sự liêm khiết của mình và diệt trừ tận gốc sự không cho mà lấy.

Đó là giới pháp thứ hai mà người đệ tử áo trắng hộ trì.

- Vị  đệ tử áo trắng xa lìa tà dâm, chấm dứt sự tà dâm, bảo vệ cho bất cứ ai, dù người ấy nằm trong sự bảo hộ của cha mẹ, hoặc cả cha lẫn  mẹ, hoặc chị em, hoặc anh em, hoặc cha mẹ bên sui gia, hoặc gia đình sui gia, hoặc bởi người đồng tính, hoặc là vợ con hay chồng con kẻ khác. Vị này diệt trừ tận gốc tâm niệm tà dâm.

Đó là giới pháp thứ ba mà người đệ tử áo trắng hộ trì.

- Vị đệ tử áo trắng xa lìa nói dối, chấm dứt sự nói dối, chỉ nói sự thật, tìm niềm vui trong sự nói lên sự thật, an trú nơi sự thật không lúc nào đổi dời, có thể được tin cậy hoàn toàn và không bao giờ dám miệt thị kẻ khác. Vị ấy diệt trừ tận gốc sự nói dối.

Đó là giới pháp thứ tư mà người đệ tử áo trắng hộ trì.

- Vị đệ tử áo trắng xa lìa rượu, chấm dứt sự uống rượu, diệt trừ tận gốc thói quen uống rượu.

Đó là giới pháp thứ năm mà người đệ tử áo trắng hộ trì.”

Như các Anh Chị cũng thấy, nội dung năm giới trên được xã hội hóa và “hiện đại hóa” điển hình là giới luật thứ ba đề cập đến người đồng tính, nghĩa là nói chung, nhằm vào việc giúp người thọ giới có thể thực thi giới điều trong hoàn cảnh thực tế thay vì phải đối diện trước ngôn từ mơ hồ, tổng quát của giới pháp. Từ đó khai triển thêm thì có Thập Thiện giới và Bồ Tát giới tại gia.

Có thể nghĩ rằng, với việc thọ căn bản năm giới, dù dưới hình thức tâm nguyện nào, người Phật tử có đạo tâm khởi đầu việc tu tập của mình và tu tập ngay trong đời sống hàng ngày. Công việc nghe thì thấy đơn thường và giản dị nhưng là việc thực tập phức tạp và khó khăn do môi trường và hoàn cảnh đặc biệt của sự thử thách. Tục ngữ ta có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa” là nói lên kinh nghiệm tu học ở hoàn cảnh khó khăn nhất. Bởi vì cuộc sống gia đình đòi hỏi nhiều thứ bổn phận, trách nhiệm  nơi mỗi cá nhân dẫn đến những trở ngại hay ràng buộc ảnh hưởng không nhỏ đến cố gắng tu học của mỗi người. Không nói đâu xa, ví dụ, khi người tu học tụng một thời kinh hay ngồi thiền giữa lúc đông đảo cả nhà trò chuyện hay làm điều huyên náo thì chắc chắn không phải là hoàn cảnh thuận lợi như ở trong chùa yên tĩnh. Nhưng, nếu người Phật tử tại gia biết thực tập pháp môn “phương tiện thiện xảo” cố gắng sắp xếp công việc làm ăn, chu tất khéo léo việc nhà thì vẫn có thể thực hiện được việc tu tập trong hoàn cảnh và thời gian thuận tiện. Như thế, trong điều kiện nói trên, công việc tu tập của người tai gia khó khăn hơn gấp bội nghĩa là người cư sĩ tại gia đã tỏ ra kiên tâm, trì chí biết bao mới có thể duy trì được hạnh nguyện.

Theo tôi được biết, một trong những gương điển hình đương đại của người cư sĩ nhà Phật là cụ Chánh Trí. Đương thời dù đảm nhiệm nhiều trọng trách mà chức vụ sau cùng là một Quốc Vụ Khanh, Cụ vẫn dành thì giờ chu toàn công việc của một cư sĩ mẫn cán; làm việc tại chùa Xá Lợi, và tiếp tục công việc trước tác, phiên dịch kinh điển, không kể việc rèn luyện sức khỏe, dành mỗi ngày 1 giờ đi bộ. Tôi rất biết ơn Cụ với quyển Pháp Hoa Huyền Nghĩa, nhờ những điều sách khai thị mà tôi tăng thêm tin tưởng vào chánh pháp.

2. VAI TRÒ HỘ ĐẠO

Không chỉ chuyên chú vào việc giác ngộ bản thân, người cư sĩ tại gia còn có trách nhiệm với sự hưng suy, tồn vong của giềng mối đạo pháp. Nói rõ hơn, người cư sĩ tại gia cần chia sẻ với người xuất gia trách nhiệm liên quan đến sự hoằng dương đạo pháp trong lãnh vực đảm nhận hay được ủy thác.

Công việc hộ đạo không DÀNH RIÊNG cho những Trưởng tử của Như Lai khi mọi giới, mọi người đều ý thức được sự cần thiết của việc hoạt động có tổ chức cho dù là những hoạt động nhằm truyền bá và thể nghiệm đức tin. Công việc hộ đạo sẽ tăng tiến, mở rộng theo nhu cầu của thời đại theo đó cần có sự tham gia tích cực người cư sĩ tại gia trong nhiều lãnh vực, đặc biệt là trong lãnh vực xã hội, nhân sinh nhất là trong chủ trương nhập thế của giáo hội. Mặt khác, chủ trương Phật giáo đi vào đời khi được thúc đẩy để thực thi về nhiều mặt sẽ đem lại hình ảnh người Huynh trưởng dấn thân nhiều hơn trong vai trò giáo dục tuổi trẻ, cải sửa xã hội trong ý hướng thiện.

Tới đây, tưởng cũng nên lắng nghe thêm lời dạy của HT Trí Quang:

Vấn đề “Hộ pháp” quan trọng và hợp lý như vậy nó bắt buộc người ti gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) phải có những hoạt động tích cực, thực tế, một cách tế nhị. Phải chống trả với mọi mưu mô ở ngoài và mọi xu hướng ở trong nếu những mưu mô và những xu hướng ấy không những làm hại Phật pháp trong hiện tại cũng như làm hại về sau. Và tự mình, mình phải thắng những gì ở mình mà chính nó có thể lôi kéo mình vào những hành động phản bội Phật pháp. Phải tự giác mãnh liệt và đừng lòa mắt vì mối lợi nhãn tiền hay lo sợ vu vơ cái hại trong tư tưởng. Phải chống trả với những gì mình biết không trực tiếp cũng gián tiếp, không ngày nay cũng ngày mai, không có thiện ý đối với sự sinh tồn của Phật pháp. Tất cả những lý lẽ trên này nó thiết tha kêu gọi sự hoạt động tận lực của chúng ta, to từ việc xả bỏ thân mạng, nhỏ đến việc bỏ ra từng đồng xu, tất cả tiềm lực nào mình có, mình không từ. Do ý thức này, người tại gia (tức hàng cư sĩ Phật tử) phải bỏ cái thành kiến hiện giờ vẫn còn vương trong tư tưởng một số đông, rằng việc Đạo phải có tài có sức. Nhưng cái tài hưởng ứng cũng cần thiết như cái tài hướng đạo, cái sức tùy hỷ lại cần hơn cái sức đồ sộ, bởi vì một bên chỉ có một thiểu số mà một bên là một hậu thuẩn hùng hậu. Cho nên những công việc vặt và những đồng bạc nhỏ, đối với Đạo, lúc này, mới thật là quý giá; chúng nó là những tấm lòng thành thực và sẽ góp thành một lực lượng to lớn. Và chỉ có vậy mới thật là hoạt động thực tế của tín đồ và cố nhiên cũng chỉ có vậy mới duy trì Phật pháp được trong tất cả mọi tầng lớp.

Nói tóm, vấn đề “Hộ pháp” nó quan trọng ở chỗ người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) thành thực bộc lộ tín ngưỡng của mình và có tinh thần gánh vác trách nhiệm, phối hợp với những hoạt động dù nhỏ nhưng thực tế, dũng mãnh. Chính đó, Phật pháp sẽ càng ngày càng xán lạn huy hoàng, không những với những hình thức đồ sộ mà còn với những sự cải hóa tốt đẹp đối với toàn diện của đời sống con người.

Việc dẫn tấm gương làm việc và lời dạy nêu trên của tiền bối, tôi chỉ muốn được phép nhắc lại vai trò, nhiệm vụ quan trọng của người Phật tử tại gia trong công cuộc mở rộng và phát huy đạo pháp thuộc nhiều lãnh vực mà xã hội, con người và cuộc sống viện cầu. Khi ý thức được điều này, chúng ta - tất cả đều là con Phật cả - sẽ có thái độ tương kính, tương trợ trong mọi cố gắng để đem lại lợi ích cho Đạo, cho Đời.

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0042

Khơi Dậy Ngọn Lửa Thiêng

Nguyên A. mến,

Khó mà tưởng tượng ra được hình ảnh một người Huynh trưởng GĐPT tên Cao Chánh H. ngược xuôi để lo liệu công việc cho Đại Hội kỳ V sắp sửa khai mạc, đánh dấu một giai đoạn cực kỳ quan trọng trong lịch sử của tổ chức màu Lam. Cùng lắm, Anh chỉ có chiếc gắn máy chạy lui chạy tới. Lương (tiền) lính chắc cũng “tính liền” nên đâu có thể tiêu xài “vô tư” được! Vậy mà, công việc đâu đều vào đấy, để rồi, trong một Đại Hội GĐPT năm 1961 ở Xá Lợi, Sài gòn, thành hình, để có ngọn lửa thiêng Thống Nhất - Bất Khả Phân rực sáng giữa sân chùa, soi rõ tấm lòng của hàng hàng lớp lớp người Huynh trưởng áo Lam mang sứ mạng lên đường làm đẹp Đạo, thơm Đời.

Rồi, cũng chỉ 50 năm sau, giờ đây, với kỹ thuật hiện đại, Nguyên A. trên đường công tác xa xôi ở China, mang theo hành  lý, vỏn vẹn chỉ có chiếc laptop, cái cellphone, vài credit cards trong túi, vẫn CÓ THẾ điều động sinh hoạt của đơn vị Hướng Thiện ở San Diego, giúp hoàn thành đề án trại Huấn luyện cho miền Quảng Đức, cùng hợp tác giữ ngọn lửa thiêng cháy sáng ở trời Tây, và, không chừng, còn nhìn thấy “dung nhan” của thân nhân (vợ hiền, con trai đang lớn) ngay trên màn ảnh của chiếc điện thoại di động đó nữa.

Thầy rất vui khi nhận tin Nguyên A. đã sốt sắng nhận công việc huấn luyện, đào tạo Huynh trưởng cho Miền. Chúng ta cần nắm tay nhau, cùng làm việc Phật. Tuổi trẻ không phải là người bỏ cuộc dễ dàng dù có gặp trăm ngàn gian khó. Tuổi trẻ cũng không lùi bước, tính chuyện “cầu an”, tiêu cực ngồi nhìn tháng ngày trôi qua trong lặng lẽ, chán buồn. Tuổi trẻ là biểu tượng của hăng hái, lên đường (vì đàn em), lạc quan, mở rộng cõi lòng (với tất cả bạn Lam) để hoàn thành sứ mạng cao cả của người Huynh trưởng. Sứ mạng đó, tấm lòng này dù hiện thực trong một cuộc đời vốn giả tạm nhưng chắc chắn lại có vô vàn những mầu nhiệm của sự sống khi chúng ta chấp nhận DẤN THÂN đi tìm lẽ sống đích thực, đi tìm lẽ sống đích thực, đi tìm lợi ích cho những thế hệ mai sau. Đó là sức sống của tổ chức GĐPT được khai sinh và tiếp tục hoàn thiện từ nhiều thế hệ tiền bối, đàn anh, đàn chị. Đó là lý tưởng cao quý của con đường Hoa Sen Trắng mà Thầy luôn luôn tin tưởng, trân trọng và mong ước Nguyên A. cố gắng giữ gìn nề nếp gia phong, tận tụy phát triển để đền đáp muôn một tấm lòng của người Huynh trưởng tên Hựu, công ơn sâu dày của cụ Tâm Minh, và biết bao nhiêu lớp Huynh trưởng đã dày công khai sáng cho chúng ta. Chúng ta không thể không lưu tâm đến vận mệnh thăng trầm, hưng suy của Tổ chức; mà trái lại, giữ tâm bình tĩnh, sáng suốt, kiên trì cho công cuộc vận động hợp nhất GĐPT tại Hoa Kỳ.

Những ngày tháng tới sẽ là thử thách cho tất cả chúng ta, những người còn có những đêm thao thức bên chiếc computer, lên mạng xuống kênh để nối kết tình Lam muôn thuở, có những ngày xuôi ngược đó đây để lắng nghe nỗi niềm, mong ước cho một ngôi nhà GĐPT có nhiều đoàn kết, thương yêu... Đã có những dấu hiệu thuận lợi, vui vẻ, Nguyên A. à. Từ đầu năm nay, qua những trao đổi sơ khởi, nhiều người trong tập thể của chúng ta đã lên tiếng ủng hộ cũng có, bày tỏ lo âu cũng có, mà tựu trung, là một không khí mang nhiều hy vọng hơn nản lòng, chịu khó lắng nghe hơn âm thầm trách cứ... Đương nhiên, mọi người nên cẩn trọng, có lúc cũng nên thận trọng nữa, nhưng rồi, chắc ai cũng có cùng một niềm phấn khởi, là dường như VẬN HỘI lại bắt đầu mở ra một CHU KỲ MỚI, sức sống mới cho Tổ chức chúng ta.

Cái lợi ở chỗ nào, chắc Nguyên A. cũng muốn biết? Theo Thầy thấy, ngay trước mắt cũng có mà lâu dài cũng có, Nguyên A à. Mở đường cho việc vận động Hợp Nhất tức là chúng ta bắt đầu cho một suy tư nhằm cởi bỏ những dị biệt, cố gắng xóa bớt lằn ranh “bên này, bên kia” vốn là thái độ nhị nguyên đưa đến buồn phiền, khổ đau. Khi chúng ta cùng có cơ hội thực tập như vậy, niềm vui sẽ lớn dần trong cuộc sống của mình.

Đối với tập thể huynh trưởng là những người có cùng màu cờ, sắc áo cho một lý tưởng giáo dục tuổi trẻ, trở thành công dân tốt cho xã hội, đã, đang và sẽ là  thành phần rường cột đóng vai trò chủ động cho mọi công tác, phương hướng của tổ chức GĐPT chúng ta. Nuôi dưỡng được hàng Huynh trưởng sống trong hạnh Lục hòa, giữ tâm Bồ tát độ tha... cũng có nghĩa là nâng cao giá trị của con đường Hoa Sen Trắng, làm mẫu mực cho đàn em mai sau . Thầy đặc biệt nghĩ đến những anh chị liên đoàn trưởng trong bối cảnh sinh hoạt ở các Đơn vị địa phương trong lúc này. Đó là những “chiến sĩ tiên phong” trên tuyến tiền phương. Cùng sinh hoạt trong một vùng đất, trong một tiểu bang mà có cơ hội để quý Anh Chị đó trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau để làm cho đơn vị của mình phát triển, tăng thêm sức sống, có được tinh thần lành mạnh thì vui, thì quý hóa biết chừng nào!

Để tạm kết luận thư này, Thầy mời Nguyên A. nghe một đoạn trong bài thơ của một Huynh trưởng ở Sacramento chia sẻ tâm tình của mình, với hình ảnh thầy Phổ Hòa thân mến, dưới đây:

Đêm nay một mảnh trăng thanh

Tưởng niệm anh khi anh còn sống

Xin nguyện cầu cho tất cả

Tay trong tay lòng bên lòng

Xây dựng tổ chức GĐPT Việt Nam

Bằng chất liệu thương yêu, bao dung và tha thứ

Nam mô thầy Phổ Hòa thương yêu còn sống

Nén hương lòng xin gởi đến cùng Anh

Tâm Thường Định

Việc xây dựng tổ chức, làm lợi ích cho tập thể áo Lam, là một vinh dự, và PHẢI là một hoài bão chung ở trong tim của tất cả chúng ta.

Còn mấy hôm  nữa, theo lịch Mỹ, là chúng ta có nắng ấm, Xuân về trên miền đất tạm dung này. Nguyên A. ơi, chúng ta hãy cùng chắp tay cầu nguyện cho một VẬN HỘI MỚI gặp được thuận duyên mà thành tựu tròn đầy.

Đưa Tay Lên Níu Ánh Mặt Trời

Tiếng bánh xe nghiến đều trên mặt đường trải sỏi, âm thanh nghe thật êm tai. Cảnh núi rừng âm u, tịch mịch như tạo thêm vẻ hoang vắng cho trởi chiều. Tôi trở về tu viện với mấy người Phật tử muốn làm công quả. Ai cũng náo nức muốn đóng góp một cái  gì cho sự hình thành của tu viện Kim Sơn. Họ không chỉ nghĩ bằng ý thôi mà, thực tế hơn, họ tình nguyện ủng hộ tiền bạc và sức lực của chính mình. Có người đến đây từ các vùng phụ cận. Cũng có người đến từ các thành phố xa xôi. Thợ mộc, Thợ nề, Lao công, Phụ thợ. Nhiều hạng người của nhiều hạng tuổi. Không biết họ có ý niệm gì chứ tôi luôn nghĩ về họ như là những Trì Địa của thế kỷ hai mươi.

Đến rồi! Một người trong bọn tôi reo lên như thế với vẻ vui mừng. Tôi mỉm cười như biểu đồng tình; hơn hai giờ lái xe rồi còn gì! Tôi tắt máy xe, gom mấy thứ lặt vặt cần dùng cho mấy ngày ở lại đây rồi bước những bước chậm chạp, chắc chắn vào hướng bên trong. Từ phút đó, tôi bắt đầu nhập cuộc.

HÀNG CÂY ĐỨNG THẲNG

 

Ai đã đến tu viện mới thấy được điều này: khung cảnh ở đây thật đẹp. Nằm trên độ cao của núi Madonna, tu viện Kim Sơn như một cô gái đẫy đà có đời sống sung túc, phong lưu. Hè về, tu viện đắm mình trong những cơn gió mát từ hướng biển Thái Bình thổi lại. Trăng trên cao rọi xuống hàng cây đứng thẳng, mọc đều đặn phía trước và sau lưng căn nhà chính. Đây cũng là lúc giữa đêm khuya, vài “con nai vàng ngơ ngác” của Lưu Trọng Lư thường dẫm lên lá vàng khô, âm ba nghe như hoang vắng vô bờ. Khi đông đến, bếp hồng được đốt lên để sưởi ấm lòng người, bên ngoài lẫn bên trong. Ấm áp lan dần trong từng thớ thịt. Ngoài kia, gió tạt qua song cửa, tiếng mưa rơi trên trần nhà tạo thành bản nhạc nhiều nốt cao, thấp không đều. Đêm và ngày, mưa và nắng, tu viện nằm yên trong tiếng ru ngọt ngào của đất trời. Ngoài ra còn có màu xanh của cây và lá.

HÀNG TÙNG CAO, CAO DÀY TÂM PHỔ ĐỘ

RẶNG THÔNG GIÀ, GIÀ RỘNG NGUYỆN HOẰNG SINH

Không phải chỉ có loại cây redwood là đẹp thôi, mà còn có bác cổ thụ già sống trên trăm tuổi. Ông hàng xóm vui tính có lần bảo: “Cây này sinh cùng thời với ông cố của tui đó, thầy ơi.” Có lẽ ông nói đúng. Tôi và mấy người bạn ở Los Angeles ghé thăm có lần đã “đo” thử. Đo bằng cách, năm chúng tôi cùng giang rộng hai tay rồi người này áp sát ngực vào cây và cố bắt tay người kế bên, trong tiếng cười của anh người Pháp. Kết quả, vừa khít khao, như vậy vòng ngoài của cây chắc phải đến sáu hay bảy mét ta. Vỏ cây sần sùi, nứt nẻ thầm khoe cái vẻ phong sương, lụm khụm, ẩn hiện đôi chút tự hào vặt vãnh. Tôi lấy tay sờ vào thân cây, bấm nhẹ như vuốt ve an ủi ông cụ già trong viện dưỡng lão. Tôi đoán, cây đang có ước vọng âm thầm: Phật pháp khởi sắc ở đây.

Nhìn cây, ta có cảm tưởng cây đang muốn vươn cao, cao và cao hơn nữa theo năm tháng. Cao để nhìn thật rõ những khuôn mặt thân thương, mới quen hay biết nhau từ vạn kiếp thuở nào. Từ đó se duyên sống trong lục hòa, vạn hạnh của giáo lý từ bi. Trong phút cảm hứng, sư ông Tịnh Từ tức thi sĩ Sơn Cư đã viết thành thơ:

“Trăm năm cổ thụ trầm tư

Ngàn năm đá tảng chần chừ se duyên

Thông già ngả bóng hàn huyên

Hồi chuuông triêu mộ diệu huyền chứng tri”

Dưới các hàng cây tươi mát là những tảng đá mà rêu xanh đã phủ kín mấy lần. Tôi bước qua bụi cây nhỏ, thấp bằng đứa bé lên ba vừa mới tập đi, và leo lên ngồi trên một tảng đá. Cây đã cứng mà tảng đá lại càng  cứng hơn. Tôi tự nhủ như vậy, chớt nhớ đến lời mẹ dạy hồi nhỏ: “Cây cao không được chọc, đá lớn chẳng nên trèo, nghe không con.” Với phản ứng tự nhiên, tôi nhảy vội xuống, quay mặt nhìn. Rồi còn tệ hơn trẻ con, tôi thấy sờ sợ một cái gì. Hòn đá giống con cá quá! Cái miệng đang hả ra như hăm dọa tôi. Thôi chết rồi, nó giống con cá chép vượt Vũ môn trong giấc mộng của tôi như tạc. Quẹo qua phía bên trái một chút, tôi đi thẳng vào con đường đất vừa mới cày hôn trước.

NHỮNG BƯỚC CHÂN RẤT LẠ

Với chánh niệm trước mặt, tôi đặt những bước chân thật kính cẩn, nhẹ nhàng trên luống đất mới. Lắng nghe hơi thở ra vào theo nhịp lên xuống của bàn chân vốn là một điều làm tôi thích thú. Ở trường học, lắm lúc tôi phải chạy mới  kịp giờ học. Ra đường, hay băng qua đường lại gặp sự “dọa nạt” của khoa học những ngọn đèn xanh đỏ vô tri cứ thúc hối mình rảo bước. Đặt được bước chân một cách bình an, thoải mái, tôi thấy hạnh phúc, sung sướng làm sao!

Con đường phía trước kéo dài, khi thì quanh co, lúc lại chạy dọc theo triền của một đồi nhỏ. Những lối đi này được hình thành hoàn toàn do sáng kiến và nhiệt tâm của Sư ông Viện trưởng cộng với sự giúp sức của chiếc máy cày của một cơ sở tôn giáo kế cận. Sự khai phá này giúp tôi liên tưởng đến hành động của gia đình Ngu công ở Trung Hoa thời xưa. Cái quyết chí của Ngu công thật đáng giá biết bao! Ngoài ra, yếu tố khác không thể không được biết đến, đó là sự trung thành, kiên trì với lý tưởng của cả dòng tộc Ngu công qua ba thế hệ. Đủ nhân, nhờ đó quả trổ. Hòn núi của lúc nào, sau này là lối thông thương cho bá tánh.

Tu viện Kim Sơn đang trên đà phát triển theo chiều hướng thuận lợi. Nay mai, tu viện lại mở thêm các tiện nghi khác để đủ điều kiện đón những bước chân của khách thập phương bá tánh lưu trú dài hạn. Ai cũng có thể dừng lại để nghỉ ngơi, và có quyền tìm lại sự an lạc đã bị đánh mất vì sự sống chật vật. Tôi thấy phấn khởi và lạc quan khi nhìn về mặt tinh thần. Trái lại, tôi không thể không lấy làm lo ngại cho phí tổn xây dựng và duy trì. Số tiền quá lớn. Nợ chủ nhà cũ cn lại $160,000.00 (năm 1983). Việc xây cất thiền đường và phòng xá, tính phỏng thôi cũng có thể lên đến ba mươi ngàn đô là. Tiền đâu mà quý Thầy lại “gan” dữ vậy. Ai là mạnh thường quân? Dường như bạn muốn hỏi tôi. Tôi cũng đang phân vân và muốn hỏi bạn lại câu đó.

Qua khỏi khúc quanh có cái khe nhỏ phía dưới, tôi nghe tiếng ai hát vọng lên. Tiến thêm chừng chục bước nữa thôi, trước mắt tôi, những cái đầu đội mũ cũng có, để trần cũng có cùng hiện ra. Thì ra tiếng hát hồi nãy là do Thanh hát. Cô ta còn trẻ lắm, chừng hai mươi mấy tuổi là cùng. Bên Thanh có Hoa, Hương, và hai ba người thanh niên từ Sacamento lên. Tất cả có chừng mười người đang dùng cuốc, xẻng ban lại đoạn đường cho trơn tru, dễ đi. Toán công quả này do thầy Chí Năng hướng dẫn. Tất cả đều có nét hăng hái của người đi khai phá đất hoang thời chúa Nguyễn. Tôi nhìn lầm chăng? Thật mà, họ vui vẻ lắm. Bây giờ, tôi có thể trả lời bạn được rồi: Họ là những mạnh thường quân của thời đại nguyên tử đó. Họ đã đóng góp chính bàn tay và sự hăng say của chính mình.

Con đường đất còn mùi thơm đất mới xới, êm như tấm thảm loại thượng hạng. Tôi lần bước và khẽ mỉm cười niệm thầm:

Đặt bước chân này

Xin nguyện chúng sanh

Thành tựu chánh giác

Giải thoát khổ đau

Và cứ thế, tôi đi hết đoạn đường dành cho việc thiền hành với niềm vui nằm ngủ gọn trong lòng.

TÌM LẠI CHÍNH MÌNH

Đúng chín giờ tối là buổi công phu của tu viện bắt đầu. Ngồi thiền. Niệm Phật. Hai lối đi nhưng cùng dẫn đến một địa điểm giống nhau: căn nhà Định Tâm nằm trên đại lộ Giải Thoát. Phương pháp này gọi là Thiền Tịnh song tu, được áp dụng tại tu viện là những nét căn bản cho việc hành trì. “Lên tu viện mà không được ngồi thiền thì buồn lắm, uổng lắm,” cô Hoa Thiện bảo tôi như vậy. Cô không phải buồn đâu vì ở đây đã có chương trình rõ rệt về vấn đề tu tập rồi. Việc quán chiếu nội tâm, tìm lại chính mình là điều ưu tiên nhất ở đây đó cô à.

Nhìn tất cả mà thấy thương! Căn nhà tạm dùng làm chánh điện nhỏ quá nên mọi người phải ngồi sát vào nhau. Quý thầy cố dồn thật khít lại để có chỗ cho Phật tử. Hơn ba mươi người có mặt. Qua lời chỉ dẫn vắn tắt của ôn Thiện Trì, đèn điện được tắt và mọi người đi vào thế giới riêng mình.

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0043

Dưới ánh đèn cầy, hình bóng của những chiến sĩ hòa bình in lên tường, lên người kế bên. Họ lặng lẽ ngồi đó như một lời nguyền có giá trị thật cao. Nguyện rằng: nỗ lực lấy việc quán chiếu tự tâm làm tiêu điểm để bỏ bớt phiền trược của thế gian đang đè nặng trên vai. Hạnh phúc của đời người không phải do tiền tài, danh vọng mà có được đâu. Ai cũng từng khổ tâm, nhọc trí vì miệt mài chạy theo con đường danh lợi rồi thì càng thấm thía hơn. Hạnh phúc thực sự cho chính mình chỉ có thể tìm thấy từ tâm hồn mình mà thôi. Điều đó không ai cho mình được cả; có van nài cũng vô ích.

Tôi thấy họ ngồi đó chỉ trong vòng ba mươi, bốn mươi phút, nhưng lợi lạc biết bao. Tỉnh thức, được tỉnh táo ở tâm hồn thì dục vọng không có cơ gây tội lỗi. Vô minh vốn là một cái gì xấu xa đem lại đau khổ cho người, thì bây giờ đây ngồi thiền là phương pháp hữu hiệu để dập tắt mọi căn nguyên của mê lầm. Từ đó, người tu tập tìm lại chân tướng của chính mình sau một cuộc hành trình không có định hướng vốn đã quá dài.

CHIẾC BÚA ĐƯA CAO

Mọi người cùng hì hục làm. Đến chiều thì bốn vài đã được dựng lên, song song, đứng thẳng. Còn hai vài nữa, tôi nghe có người nói như vậy. Giọng nói như để nhắc lại một việc cần phải hoàn tất trước khi đêm xuống. Lại cũng có nghĩa là “xin chịu khó thêm chút nữa.” Không phải là đốc công của một dự án to tát nhưng người nói lại có tâm tình của một người lãnh đạo chịu trách nhiệm cho việc xây cất ngôi thiền đường. Đó là cụ Khoát. Cụ đã trên sáu mươi tuổi, từng có kinh nghiệm trong việc đục đẽo, cưa ngang, bào thẳng, sử dụng các thanh gỗ một cách rành rõi. Như một nhà ảo thuật lão thành, chiếc búa trong tay cụ đã biến thành “chiếc đũa thần” nho nhỏ có thể tạo nên cảnh tượng uy linh cho rừng thẳm. Là một người có tâm đạo, cụ không quản ngại đường xa để về tu viện giúp sức. Bên cạnh cụ, tôi thấy có chú Tám, các anh Minh Lực, Minh Tuệ và Đồng Tuệ.

Nói đến việc khoan thủng mấy cây kèo rồi bắt bù loong vào thì phải nhắc đến chú Tám. Nước da ngăm ngăm đen với một chiều cao vừa phải, tôi thấy chú cong lưng, nắm chắc chiếc khoan với tất cả sinh lực của chú. Chắc lúc đó, mắt chú phải mở lớn, nhìn thẳng vào lỗ khoan. Chú thiền. Nhưng không phải chỉ có những nhân vật vừa nêu mà thôi. Phần còn lại, con số còn gấp lên và sự đóng góp của họ cũng không kém phần quan trọng.

Mời bạn theo dõi việc dựng một vài gỗ - gồm có hai cột trụ, hai cây kèo và một đòn ngang - để thấy sự cần thiết của tất cả mọi người hiện diện lúc đó. Tôi thấy anh Minh Lực lấy cây thước gỗ đo lại khoảng cách giữa hai cột trụ. Anh mỉm cười bằng lòng. Anh Minh Tuệ có “ngài” râu duyên dáng nhanh tay đóng mấy cây chéo phụ cho hai trụ chính đứng vững. Anh Đồng Tuệ, một tay thợ hồ bất đắc dĩ đang tô tường cũng vội bỏ chiếc bay thay vào tay cây xà beng để cạy mấy cái đinh đóng trái chỗ hoặc bị quẹo. Trong khi đó, cụ Khoát thì cầm cây búa, dơ cao lên để đóng lại mấy cái đinh chưa được lún sâu vào sàn gỗ. Tổng quát, kế hoạch được sắp xếp như sau: các thanh niên mạnh sức thì phụ đỡ cả vài, đưa lên dần. Cụ Huệ Hải lo việc kéo sợi dây to tướng được cột ngang múi nối của hai cây kèo. Mấy người yếu sức hơn, tạm kể như vậy, thì cố rị hai cây cột đừng cho xê dịch và xem chừng khi nào có người hô: đinh, thì đem tới. Những người còn lại thì cầm sẵn nào thang, nào búa, nào cây... để khi cần thì có liền.

Khi đã xếp đặt xong xuôi rồi, cụ Khoát ra hiệu và anh Minh Lực hô, “một, hai, ba lên” thì mọi người: kẻ kéo, người dở hỏng, đồng vận hết sức mình đưa cao vài gỗ lên, lên cho đến khi nào tới đích thì thôi. Tất cả, dường như đều sẵn sàng cho một mục đích chung: ngôi thiền đường. Tiếng hô dõng dạc vừa thốt lên thì ai nấy đều đồng đáp ứng. Tôi cảm nhận rằng: tất cả con tim của người con Phật, trong lúc đó và ở nơi đó, đều cùng đập một nhịp điệu như nhau. Sư ông Tịnh Từ đang viết ở bên trong đó, buông viết nhìn ra. Một Phật tử nhà bếp tất tả chạy đến khung cửa đưa mắt ngoái nhìn, tay còn cầm đôi đũa nấu ăn. Thậm chí, cháu Quang Trí đang chơi đùa với người bạn Mỹ, cũng dừng tay nghe ngóng, coi thử có ai sai bảo điều gì. Và khi cụ Khoát mạnh dạn dơ cao tay búa đóng cây đinh cuối cùng nối liền các vài lại với nhau, vững chắc qua sự liên kết của nhiều thanh gỗ, với búa, với đinh, mọi việc mới hoàn thành. Với tôi, lịch sử vừa được viết vì mọi động tác, mọi tấm lòng, mọi cánh tay đều đồng đưa lên để níu ánh mặt trời về ngự trị giữa dòng đời đau khổ.

Hai ngày nghỉ trôi qua, tôi lại trở về trên lộ trình quen thuộc. Chúng tôi dù mệt mỏi, nhưng đều thấy phấn khởi vô cùng. Nghĩ đến những khóa tu tập thiền quán hàng tuần, những mùa an cư sắp

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0044

tới trong một khung cảnh an tĩnh ở tu viện Kim Sơn, ai mà chẳng hân hoan cho được. Đã bao nhiêu thế kỷ trôi qua, đạo Phật vẫn còn đứng vững giữa những biến chuyển, thăng trầm là nhờ có sinh lực, sinh khí của tinh thần chứng ngộ, giác tri. Ngày nay, Phật tử Tây phương nhìn vào nếp sống của Phật giáo với niềm ngưỡng mộ cũng vì cái đặc thù giải thoát đó.

Sự hình thành của tu viện Kim Sơn giờ đây như  là lời đáp ứng sự thiết tha tìm về mối Đạo của mọi giới Phật tử. Mời bạn hưởng ứng. Hưởng ứng để tu tập bản thân. Hưởng ứng để cùng nhau xây dựng căn nhà Phật pháp bằng cách đóng góp tài vật, công sức theo khả năng của mình. Và hưởng ứng để gieo vào lòng nhân loại đau khổ một niềm hy vọng. Đành rằng, tất cả đều chỉ là tạm bợ nhưng có khi nhờ cái tạm bợ đó mà ta có thể tìm thấy cái vĩnh cửu, vẹn toàn. Xin cho tất cả mọi người đều đồng một lòng trong việc góp tay tạo dựng đạo tràng thanh tịnh này. Ngưỡng mong ân đức Bồ tát Trì Địa chứng giám gia hộ cho Phật sự trên sớm được thành tựu mỹ mãn.

Vạn Dặm Rong Chơi, Đường Rộng Mở

Nếu xem việc thích rong ruổi là bản tính hay vì bổn mệnh ở cung thiên di mà tôi từ lúc mới lớn đã thích lang thang đây đó. Đi không biết mệt. Mỗi khi chiều xuống, tôi lại muốn ra khỏi nhà, một mình thui thủi đếm từng bước xuôi ngược trên đường làng. Nhiều lúc, chưa biết đi đâu nhưng trước nhất miễn ra khỏi nhà là đủ! Đến lúc trưởng thành, việc đi và đi xa không còn là điều khác thường nữa mà gắn liền với đời tôi như một nghiệp dĩ. Tôi đã từng lặn lội qua nhiều địa điểm trong dãy Trường Sơn miền Trung trong những chuyến hành quân nhiều may rủi, bất ngờ. Những chuyến đi không còn êm ả như xưa mà đem theo bao phiền muộn, mất mát của thời thế. Chiều xuống, giữa tiếng súng dập dồn là lúc nhiều người bạn đồng ngũ nằm xuống trả nợ cho núi sông. Tôi không còn những chuyến đi êm đềm khi cùng khóc, cùng hứng chịu những nhọc nhằn, đau đớn, chia lìa bạn bè; những ngày đó tưởng như bất tận. (*) Cho đến gần cuối tháng 3 năm 1975, tôi cùng đơn vị đi về hướng nam, vào Đà Nẵng, tới được Cam Ranh, và cứ miệt mài đi mãi cho đến khi thấy mình ngồi trên một chiếc tàu buôn xa lạ... đợi giờ khởi hành về hướng căn cứ Subic Bay, Phi Luật Tân, bắt đầu cuộc đời ly huơng, tỵ nạn nơi quê người.

Có những đêm bất ngờ tỉnh giấc, tôi chợt thấy mình bơ vơ, tro trọi lạ kỳ, cảm thấy trên trái đất này chỉ còn lạc lõng một mình. Mà quả không sai, quanh tôi đâu còn ai thân thích, dù còn bà con xa đến mấy đời cũng không có. Từ đó, tôi sống trọn với bạn bè, nhận những người quen biết chung quanh làm gia đình thay cho huyết thống. Và, cũng từ đó tôi biết tại sao mình lại đặc biệt mến mộ tinh thần “tứ hải giai huynh đệ,” anh em bốn biển một nhà, những khi tìm đến với nhau.

ĐI VỚI ƯỚC MƠ CỦA MÌNH

Những ước mơ đã tiềm tàng trong tôi từ lúc mới lớn qua các câu chuyện trong những bộ truyện Tàu. Những mơ ước có thể mâu thuẫn nhau nhưng đều xem như là cơ hội đưa tôi đến những chân trời xa lạ, thỏa được cái khao khát bấy giờ bị giới hạn trong ngôi làng nhỏ bé, quen thuộc. Tôi từng say mê hình ảnh của triền núi cao văng vẳng tiếng sáo vi vu thoát tục, nơi những kỳ nhân dị sĩ an nhiên tự tại bên mây núi trăng rừng, làm bạn với muông thú và thiên nhiên. Tôi cũng ước mình có thể theo chân những đoàn người sống trên lưng ngựa, rày đây mai đó, lúc tung hoành nơi thảo nguyên sằn dã, khi băng qua sa mạc hoang vu trong khí thế bạt ngàn tưởng như lay động được trời đất. Rồi còn vô số địa danh như Trường Bạch  sơn, đất Ba Thục, sông  Ô giang, nơi ghi dấu những sự kiện phi thường, đều lần lượt được sắp xếp trong lịch trình cho những chuyến đi xa trong trí tưởng tượng của mình.

Ước mơ có lúc liều lĩnh đẩy tôi đi thật xa, vào thế giới của những người hùng, những người tay không mà làm nên việc lớn. Nhân vật Hàn Tín thuở Hán Sở tranh hùng một thời gieo trong tôi những xúc động lạ thường. Nhất là cảnh trong phim cho thấy người thanh niên đất Hoài Âm rời làng quê lên đường mưu lập sự nghiệp. Gươm trên vai, bước đi mạnh mẽ, hiên ngang dưới ánh chiều tà như thể sẵn sàng khai chiến với nghịch cảnh, đối đầu với khó khăn, hoàn thành được chí nguyện của mình trước khi màn đêm buông xuống. Nhưng chẳng phải tôi muốn xây dựng sự nghiệp giữa chốn ba quân hay muốn trèo cao bậc thang danh vọng. Tuyệt nhiên không. Tôi chỉ thấy người thanh niên đất Hoài Âm đó đã nhiệt thành, nhẫn nại và nhẫn nhục, vượt qua bao thử thách để hoàn thành cho được giấc mơ của tuổi trẻ.

Rồi khi đọc thơ Nguyễn Du, thử hình dung ra giấc mơ thời loạn được gửi gắm theo bước chân của người đi săn núi Hồng Lĩnh - Hồng sơn liệp hộ -  mà muốn được cảm thông với người xưa về những ước vọng chịu u uất trong lòng.

Tôi còn mê phong cách Nguyễn Trãi khi về Côn Sơn trí sĩ, thong thả đếm từng bước chân dưới trời chiều mà nghệ sĩ Minh Vương thủ vai trong vở tuồng “Rạng Ngọc Côn Sơn.” Thật đúng là lối xuất sử của kẻ sĩ: Ung dung, lặng lẽ, an nhiên khác với thái độ cần thiết khi nhập thế giúp dân dựng nước.

Tôi thường tham lam trải rộng ước mơ trên nhiều lãnh vực mong muốn. Có lúc, tôi say mê dệt ước mơ cho mình bằng ngày được đặt chân lên Hy Mã lạp sơn, hay ngồi ngắm bóng mình bên bờ sông Amazon nơi Nam Mỹ. Ngoài ra, dù chỉ mới đến xứ Ấn trong chuyến hành hương năm 1991, tôi đã thấy mình “gần” với núi Tuyết rồi. Và, khi có cơ hội xem phim ký sự về Peru hay Argentina thì chỉ riêng hình ảnh dòng nước lững lờ trôi cũng trở thành hạt giống mong đợi trong tiềm thức chỉ chờ cơ duyên là nẩy nở.

Tạm rời mơ ước để trở về với thực tại. Riêng ở xứ Mỹ, qua 40 năm, tôi đã đi nhiều nơi trong nhiều trường hợp và tâm trạng không như nhau. Trước hết, không thể không ngậm ngùi chia sẻ với bạn nỗi buồn xa xứ khi đặt bước cô quạnh trên vùng đất bên kia Thái bình dương. Xuất trại vào cuối năm 1975, tôi về sống ở thành phố San Francisco. Dạo đó, lệ phí xe buýt công cộng chỉ có 10 cents mà thôi. Có thể đi qua nhiều trạm, nhiều chặng đường mà không cần trả thêm trừ khi làm một chuyến khứ hồi. Nhờ lệ phí rẻ, mà lại được nghỉ học ngày cuối tuần nên khi có thì giờ, tôi thường ngồi xe bus chạy vòng vòng trên đường Ocean Beach, dọc theo bãi biển. Khi mệt thì lấy trái táo ra ăn, hớp miếng nước lạnh rồi đi nữa. Đưa mắt nhìn ra ngoài khơi kia, xa hơn nữa là xứ Việt nam thân yêu của mình, lòng thật khắc khoải, buồn nhớ.

Tiếp đến, những ngày phải lo sinh kế trên đất mới, phần học tiếng Anh ESL, nên tâm hồn tạm nguôi ngoai phần nào. Tuy vậy, thỉnh thoảng tôi ra công viên Golden Gate và thả hồn mình theo những bước chân trên con lộ mang tên vị tổng thống Hoa Kỳ trẻ trung có tinh thần cầu tiến cao độ với chương trình không gian new frontier đổ bộ lên mặt trăng, John F. Kennedy, mà tôi rất kính mến. Những chiều tản bộ êm đềm như thế đem lại giờ phút thanh thản trong tôi trong đời sống mới.

Năm đầu tiên vào đại học, 1978, tôi tìm lại được thích thú năm nào với những mơ ước nẩy nở nơi sân trường. Khi là những khoảnh khắc lúc đổi lớp, khi là lúc lang thang dưới dãy tùng già, cao ngất, hoặc những lúc vào thư viện để trau dồi bài vở, tìm kiếm một hướng đi cho công việc mình theo đuổi. Tôi đã dừng lại bên hàng kệ sách suốt mấy năm với môn học về quản thủ thư viện. Có lần, thật thích thú khi phát giác ra mình đang ở trong một “căn nhà đầy tràn sự hiểu biết của loài người” khi tìm đọc tác phẩm từ Đông sang Tây. Trong dịp này, tôi còn tìm gặp tư tưởng của Krishnamurti, của sư ông Nhất Hạnh, và thích thú với những tác phẩm văn chương của Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Võ Hồng... Như tìm được sở nguyện, tôi miệt mài với những trang sách và nhân đó, âm thầm dệt thêm những ước mơ.

Thời thế đã khiến tôi ngưỡng mộ những tấm gương anh hùng trong sử sách, thường xúc động trước những lời tâm huyết giục giã của tiền nhân, thường để lòng dạt dào theo sự phấn khích biểu lộ trong văn chương hay nghệ thuật đương thời. Nhưng rồi sau cùng, do nhều thiện duyên hơn là hoàn cảnh, những trang kinh Phật đã dẫn dắt tôi tìm đến cửa thiền, để có được những bước chân “đi mà không cần đến” mong đạt được thong dong giữa cõi hồng trần.

ĐI MÀ KHÔNG CẦN ĐẾN

Người tu tập Phật pháp đi với đôi chân như mọi người nhưng không mang theo mong cầu nào cả. Thông thường, khi đi, chúng ta có một mục tiêu để đến nhưng khi thực tập thiền quán thì “điểm đến vốn đã có mặt trên đường đi”, vì vậy người hành giả chỉ cần giữ tâm có mặt trong giây phút hiện tại là đủ.

Cũng bởi xu hướng của tâm là luôn có một điểm để đạt đến nên con người không có khả năng sống với giây phút hiện tại được, nghĩa là chúng ta cứ mãi “chạy đua” với thời gian, với những sự việc xảy ra mà không thật sự sống với chính mình. Sống như vậy là cả đời mình phải chạy theo ảo ảnh, ảo vọng. Thiền quán dạy ta phương pháp dừng lại để tiếp xúc với sự sống nhiệm mầu. Khi đã biết cách dừng lại thì chúng ta có thể cảm nhận thời giờ quý báu với chính mình, với người thân và với mọi vật chung quanh. Ví dụ, khi ngắm một đóa hoa thược dược, điều nhiệm mầu trải rộng trước mắt ta. Nào là những màu sắc xinh tươi, nào là hình dáng từng cánh hoa kết thành nói lên vẻ đẹp mà thiên nhiên cống hiến cho con người. Tôi nhớ, thời gian đầu mới thành lập chùa Phổ Từ năm 2001, thầy Phổ Đức là người dành nhiều thì giờ để trồng hoa thược dược. Hoa trổ đợt đầu ai cũng trầm trồ. Những đóa hoa thật lớn, nhiều màu cùng khoe sắc khiến cảnh chùa thêm phần tươi thắm. Riêng mình, tôi đã ghi nhớ ý nghĩa sự có mặt của những đóa hoa này. Đó là một cách biểu lộ chừng mực của một tấm lòng chất phác, cần cù.

Chưa kể, nhìn xa hơn và rộng hơn, chúng ta sẽ thấy vạn pháp cùng có mặt quanh ta giúp ta nhận thức ý nghĩa cuộc sống và sự sống. Nhờ biết dừng lại, chú tâm vào giây phút hiện tại, nhà thơ Quách Thoại đã có thể tiếp xúc với giây phút hiếm hoi và bài thơ “Hoa Thược Dược” ra đời:

Đứng yên ngoài hàng dậu

Em mỉm nụ nhiệm mầu

Lặng nhìn em kinh ngạc

Vừa thoáng nghe em hát

Lời ca em thiên thâu

Tôi sụp lạy, cúi đầu.

Cũng vậy, bất cứ con đường, đoạn đường nào chúng ta đi qua hàng ngày, cũng có thể đem lại kinh nghiệm tuyệt vời một khi ta biết dừng lại, ngắm nhìn cuộc sống đang diễn ra trước mặt.

Con đường Từ Bi trong khuôn viên chùa Phổ Từ cho tôi những cơ hội đó. Hàng ngày, khi trời mát mẻ, tôi dành thì giờ bước dọc theo hàng rào ngăn với trường học bên cạnh. Sáng nay, tiếng cười, giọng nói của các em học sinh tiểu học hồn nhiên, tươi mát như gieo vào lòng tôi sức mạnh của an vui, thanh thản. Đừng âu lo gì cả, cứ để tâm tư mình vươn lên với trời cao trong xanh, hòa chung làn gió mát tự nhiên, là lúc tôi cảm nhận được hạnh phúc, bình an theo từng bước chân. Thực tập như vậy một thời gian, tôi biết cách lắng đọng tâm tư để sống hoàn toàn với giây phút hiện tại nhiệm mầu. Dần dần tôi biết cách tiếp xúc với thực tại như thế trên những đoạn đường ở công viên, hay khi sắp hàng chờ đợi trong bưu điện, nhà băng... Tôi thấy rằng, nơi nào, ta cũng có thể an trú với bước chân của mình cả. Bớt buồn phiền, lo lắng, ta vui với cuộc sống nhiều hơn.

Tiến lên bước nữa, trong những ngày Tu Học ở đạo tràng, tôi giới thiệu cách thực tập thiền hành, phối hợp với cầu nguyện qua danh hiệu Bồ tát Quan Âm để mở rộng tâm từ bi của mình đến với muôn loài. Khởi đầu, chúng tôi cùng đi trên đoạn đường đã chọn để thiền hành và đường đi chia làm 3 đoạn ngắn. Đoạn thứ nhất, cùng lúc thở sâu, bước đều và giữ ảnh bồ tát Quan Âm trong tâm thật yên tĩnh, ta cầu nguyện cho chính bản thân được nhiều sức khỏe, an vui. Rồi đoạn thứ hai, cầu nguyện cho một người đang có mặt với mình trong giờ phút thực tập đó, và đoạn thứ ba, ta cầu nguyện cho một người ở xa vắng mặt nhưng cần đến sự cầu nguyện, chia sẻ những tâm niệm an lành.

Như vậy, từng hơi thở nhẹ, từng câu niệm Phật, Bồ tát sẽ trở thành những hột giống Thương yêu được đặt vào trong tâm, giúp ta tăng thêm năng lực để có thể thương yêu và chung sống với muôn loài. Ban đầu ta tập thương người thân, lần lần, mình tập dành thêm tình cảm cho cả những người hay tranh cãi, trái ý với mình. Từ gần ra xa, từ trong nhà ra ngoài ngõ, ta hãy thực tập không phân biệt Thương Yêu vì thật ra, ai cũng có nỗi khổ niềm đau cần đến tình thương yêu của đồng loại.

ÁNH MẮT THEO DÕI BƯỚC CHÂN

Có những ánh mắt theo mãi bên mình khiến không bao giờ quên được, bạn có đồng ý với tôi không? Không biết ngày xưa, khi Cao tiệm Ly tiễn Kinh Kha bên dòng sông Dịch, sang Tần làm thích khách, biết rằng đi mà không có ngày về, tình bạn của họ lưu luyến như thế nào, ánh mắt dõi theo nhau đến tận chân trời nào? Rồi những buổi chia ly của đôi lứa đã có lời thệ hải minh sơn, mỗi người một ngả, mắt tràn lệ thương yêu thì chữ nghĩa làm sao có thể diễn tả trọn vẹn được! Với riêng tôi, ngày lên đường theo đơn vị rút vào Nam, lời nói của mẹ tôi và nhất là ánh mắt của mẹ chan hòa tình thương, nghẹn ngào, âu lo buổi ấy đã theo tôi trong suốt mấy chục năm trường. Sau này, dù được gặp lại nhau, thăm nhau được ba lần trên đất Mỹ, vậy mà lúc chia tay ở phi trường San Francisco tôi vẫn xao xuyến mạnh mẽ trong lòng. Ôi tình mẹ đong đầy, bao nỗi thiết tha. Gần 60 tuổi, ngồi bên mẹ trong đêm trước ngày mẹ và cô em gái lên đường trở về Việt Nam, tôi vẫn thấy bồi hồi không kém trong dạ. Nhiều ngày sau, tôi cứ mường tượng bước chân của mẹ mình trên con đường làng, từ nhà ra ngõ hay bóng dáng mẹ ngồi nhai miếng trầu, ăn tô bún buổi sáng... Tâm trạng đó cứ theo tôi như chiếc bóng không rời.

Tình thương mẹ thật tha thiết, khi tưởng như vương vấn, lúc nồng ấm đậm đà, đã là thứ sinh khí và dưỡng chất cho tôi trong cuộc sống nơi quê người đất khách. Lần lần, tôi đã học cách nhìn mở rộng, xem các bác lớn tuổi như mẹ mình. Ngày mẹ tôi qua thăm vào năm 2010, tôi đưa mẹ đến nhà bà hàng xóm Doris Sylva rất tốt bụng mà từ lâu tôi xem như người thân. Bà thiệt có lòng lành, đi nhà thờ xem lễ hàng ngày, một lòng tin Chúa, thương người, thỉnh thoảng còn gởi chút tịnh tài cúng chùa nữa. Khi rảnh, tôi thường cầm chổi quét đường phía trước chùa, trường học và cả bên phần đất nhà bà. Tôi còn xếp đặt thời giờ đi thăm các cụ, các bác lớn tuổi nằm điều trị hay an dưỡng trong bệnh viện. Mỗi lần gặp mặt, tôi thường thăm hỏi, vỗ về, an ủi như đang đối diện mẹ mình. Tôi thấy trong ánh mắt mọi người lớn tuổi cùng phản chiếu tâm trạng bồn chồn, thương cảm như nhau. Rồi với những người trong gia đình nữa, họ cũng như tôi đều có những tình cảm tương tự, lo lắng cho người thân. Từ đó, tôi tìm cách tạo sự liên hệ để giúp đỡ vượt qua tình trạng khó khăn trong gia đình.  Có hôm, ngồi nói chuyện ở bệnh viện Kaiser với anh Bách, thấy anh và các chị đều nóng lòng mong mỏi bà cụ sớm lành bệnh, ăn thêm chút cháo hay uống được miếng sữa, tôi thấy lòng mình cũng mong mỏi không khác. Nhớ lại lúc mẹ qua thăm, tôi cũng ân cần như thế khi thấy dĩa thức ăn của mẹ chưa vơi.

Còn một ánh mắt nữa cũng làm tôi bồi hồi không kém. Đó là của một em bé người Ấn Độ, sống gần Khổ hạnh lâm, nơi đức Phật tu theo khổ hạnh. Năm đó, tôi theo phái đoàn chùa Đức Viên đi hành hương Ấn Độ. Trong chương trình, có buổi phát chẩn cho những người nghèo quanh vùng. Mọi việc đều được thầy Huyền Diệu sắp xếp rất chu đáo, trong đó chính yếu là phân phát thức ăn. Khi phái đoàn đến, mọi người đã sắp hàng dài đợi sẵn. Tôi cũng đứng một bên, phụ bưng mấy khay thức ăn. Bỗng tôi thấy hai chị em đi tới, người chị cõng đứa em trên lưng, cả hai đều cầm tô đựng thức ăn. Chiếc tô người em cầm bị bể một góc. Hai cháu khoảng 9, 10 tuổi, đặc biệt cháu trai có đôi mắt thật trong sáng, hồn nhiên! Đôi mắt thật hiền từ khiến tôi liên tưởng ngay đến đôi mắt của Phật. Nơi phát cháo cách hang động nơi đức Phật ngồi thiền ngày xưa không xa. Tôi mường tượng hình ảnh bậc đại sư thượng trí, người theo con đường khổ hạnh ngày ngày quán chiếu tâm mình mong đạt đạo giác ngộ cứu đời. Bước chân Ngài còn lưu dấu ở đây không? Hàng ngày Ngài từng đi qua đây, ánh mắt, tia nhìn, dáng vẻ cũng an nhiên,giản  phác, vô ưu như  đứa trẻ kia? Không chỉ trong suốt chuyến hành hương, tôi giữ mãi ánh mắt đó trong tâm. Rồi từ đó, nghe những người đi hành hương Ấn Độ trở về kể lại bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu câu chuyện nhưng trong lòng, tôi chỉ thấy ánh mắt trẻ thơ đó là tuyệt vời hơn cả. Ánh mắt của buông xả, không bám víu, chẳng tham cầu.

BƯỚC CHÂN DU HÓA

Sau 10 năm ở chùa, tôi tính chuyện đi chơi xa, ngoài vùng Bay Area. Tôi đi bằng nhiều cách. Ban đầu là đi chung với quý Thầy ở chùa vào mùa hè. Vui lắm. Chúng tôi học đại học nhưng không học theo cách “lấy bằng, làm việc, rồi nuôi con” mà rất là... thảnh thơi. Nghĩa là, khóa học nào, mà thấy thích là bớt môn học và rủ nhau đi chơi. Khi thì miền Nam Cali, khi thì Lake Tahoe, hay công viên quốc gia Yosemite năm ba ngày cũng có, mà có khi đi cả tuần. Tôi nghiệm ra, những chuyến đi như vậy nuôi dưỡng tình huynh đệ rất nhiều. Sau này, dù kẻ còn người mất, hay đi làm việc xa, nhưng chúng tôi vẫn quý mến nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau. Có lần, gặp hoạn nạn bất ngờ, tuyết xuống dầy đặc trên xa lộ I-5, chúng tôi bị kẹt trong một dãy núi nằm sâu trong thung lũng vùng rừng núi Los Angeles. Đến 2 giờ sáng, chúng tôi mới chật vật về tới chùa Việt Nam. Hú hồn! Gian khổ thật nhưng khi cùng trải qua khó khăn mới thấy tình thương phát khởi. Chúng tôi san sẻ cho nhau, nhường nhau khúc bánh mì, ly nước nóng. Xuống đến miền Orange county, Nam Cali thì rất vui rồi. Đi Disneyland đó! Muôn vạn cảnh trí vui tươi, lộng lẫy diễn ra trước mắt. Tôi thích nhất là đi submarine (tiềm thủy đỉnh.) Vẫn biết tàu chỉ chạy vòng vòng quanh một diện tích không quá một sân banh football nhưng có cảm tưởng như mình du ngoạn dưới lòng đại dương rồi! Nào là những đàn cá chạy tung tăng, nào là những cành san hô trắng toát... trông thật mỹ lệ vô cùng.

Cách đi chơi thứ hai là những dịp đi làm Phật sự, nghĩa là có chương trình kéo dài vài tuần hay vài tháng, có thông báo với các nơi đến để chuẩn bị trước. Có lần,tôi đi suốt ba tháng.qua 20 tiểu bang nước Mỹ.Có quá nhiều kỷ niệm thân thương không thể kể xiết ghi dấu mối thân tình trong lúc cùng chung hoạt động, trong lúc cùng chia sẻ tâm tư với tâm nguyện chính yếu là làm sao cho ánh đạo bừng sáng nơi nơi, cho tuổi trẻ làm nên một “vận hội thanh cao” cho đời bớt khổ, thêm vui.

Có hôm, ngồi dưới chân Hùng lãnh (Grand Canyon), chúng tôi cùng đọc thơ, cất tiếng hát vang cả đất trời. Hoặc cùng thiền tọa dưới tàng cây trên trăm tuổi, cùng phát nguyện xuất gia: “nguyện đời đời kiếp kiếp, phát tâm rộng lớn cứu độ muôn loài, không hề mỏi mệt, nguyện tu học tất cả pháp môn cho đến ngày giác ngộ, lòng không biếng trễ.” Cả mấy trăm người cùng xả bỏ mái tóc xanh, rũ sạch phong trần, nguyện làm kẻ không nhà, ba y một bát, sống đời phạm hạnh thanh cao. Ôi! Vui sướng vô cùng, tấm lòng bỗng nhẹ nhõm, bao dung khi cất cao lời phát nguyện giữa đất trời.”

Bạn ơi, tôi không thể không kể chuyện này được. Năm đó, tôi được tổ chức xã hội trong Hội Thánh Tin Lành tiểu bang North Dakota mời sinh hoạt trong một trại hè dành cho các trẻ mồ côi được hội thánh bảo lãnh từ các trại tỵ nạn. Họ chu cấp nơi ăn ở, phương tiện di chuyển cho những người được mời tham dự. Dù chưa quen nhưng qua sự giới thiệu của một gia đình Phật tử, tôi yên tâm và mạnh dạn lên đường. Rất vui, khi gặp các em teenagers từ trại tỵ nạn ở Đông Nam Á mới qua và cả những em đã định cư trên dưới 10 năm, cùng họp mặt bên nhau để gầy dựng mối liên hệ thân tình giữa người Việt trên xứ Mỹ. Tôi hòa nhập với các em, kể chuyện, ngồi thiền, ăn cơm trong im lặng. Những gì biết tôi đều muốn chia sẻ với các em cả vì tôi nhận thấy gần 30 năm trước, mình cũng lang thang, cũng bơ vơ như các em bây giờ. Đáng ghi nhớ nữa là cuối trại Hè, còn (quá) lưu luyến, chúng tôi đã kéo về nhà của một chị người Công giáo làm lễ cầu an. Chị Hoa là người đã được hội thánh nhờ nấu cơm chay cho tôi ăn suốt trong ba ngày trại! Nể lời Chị, tôi nhận lời nhưng vì bất ngờ nên không chuẩn bị gì cả. Mọi người quây quần trong phòng khách, trước bàn thờ Chúa, tôi dùng tiếng gõ của nắp chiếc soong để làm hiệu cho buổi ngồi thiền 15 phút trước khi dâng hương cầu nguyện. Lời nguyện cầu chung của chúng tôi là mọi người an vui, thương yêu, hòa thuận cùng sống trong sự che chở của nhau. Bạn có bồi hồi khi thấy quang cảnh hòa hợp nương tựa bên nhau bữa đó phảng phấn tinh thần “tam giáo đồng nguyên” thời Lý hay không? Kinh nghiệm trên khiến tôi dạt dào tin tưởng về triển vọng sống chung an lạc mà những khác biệt về đức tin hay quan điểm không ngăn cản được những tâm hồn thực sự mở rộng, muốn sống trong hòa hợp.

Sau hết, cách “nhàn du” thứ ba là đi một mình.

Đây mới là trường hợp đem lại cho tôi những những giây phút sống trọn vẹn, cảm nhận được kỳ diệu và đầy đủ sự sống của riêng mình trên cõi đời này. Ôi! Nhắm mắt mà nhớ lại những giây phút nằm dài trên thảm cỏ công viên Golden Gate, những lúc chìm đắm trong cảm giác hướng thượng của tâm hồn tại thủ đô nghệ thuật – thành phố Ba lê kinh đô ánh sáng – hay đi giữa những tiếng cười của đoàn viên GĐPT trong các trại họp bạn... Lòng tôi như tưng bừng “mở hội ngàn thương” với tình người, tình đạo, tình bạn thân yêu với giới trẻ.

Những chuyến đi như thể ươm vào lòng tình cảm gần gũi với cuộc đời, với con người như loài hoa dại có mặt ở khắp nơi, đóng góp cho vẻ đẹp của hiện tại mà không câu chấp. Còn nữa, những chuyến đi như thế đem lại sự hội ngộ của những tâm hồn đồng điệu mà hương vị thanh bạch của chén thiền trà, thanh âm chưa hết xúc động của tiếng hát giọng ngâm chỉ làm cuộc tao ngộ Linh Sơn thành miên viễn.

Chung quy, từ buổi tôi tá túc cảnh chùa cho đến khi chính thức dấn bước vào đời, hành hoạt, mọi việc tựa như được xếp đặt tình cờ, được an bài khéo léo. Trên con đường đã định, tuy không gặp những thử thách khắt khe nhưng những nhân duyên thuận nghịch, trùng trùng duyên khởi, đều có mặt, khiến con người thêm già dặn, thêm vững chãi trước khi đạt được bước thong dong như mong muốn.

Mãi đi và quen đi, bỗng có lúc tôi chợt nhận ra mình không khác một tên lãng tử, lấy việc xê dịch làm ý nghĩa cho cuộc sống. Hay thì đóng góp được cho đời còn nếu dở, ít ra cũng thỏa mơ ước riêng tư. Ở tuổi nhi nhĩ thuận, kẻ lãng tử ấy vẫn chưa hết cuồng chân. Mấy ai ngăn được dấu chân chim nơi muôn ngả cũng như khó ai cản được gió gửi mùi hương đến với không gian.

Đêm hôm qua ngồi nghe hơi thở

Lặng yên nhìn trở lại bên trong

Ba ngàn thế giới thong dong

Đông tây nam bắc đâu không là nhà!

Trong khi chờ tiếng dội cảm thông đến từ tri âm đồng điệu, người du tử không hết bàng hoàng nhớ đến tiếng hú của thiền sư Không Lộ vang rền khắp chốn, đánh thức tâm tư trỗi dậy sau giấc mộng dài.

Sớm mai mùa Xuân lại về, bạn à. Mình hãy thở đều, thở nhẹ, và mỉm cười với nhau cho tin yêu, thương mến dâng ngập tâm hồn. Đường trước mặt rộng mở, và mình còn tiếp tụng rong chơi....

Hayward, ngày đầu Xuân 20 tháng 3 năm 2015

Van Dam Rong Choi Duong Rong Mo-0045

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2021(Xem: 6505)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 17702)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 3486)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
30/11/2021(Xem: 24845)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
26/11/2021(Xem: 3418)
“‘Giống như một vị Bồ Tát’ là người mà tôi có thể mô tả về thuyền trưởng Jeon Je Young,” ông Nguyễn Hùng Cường, người tổ chức lễ tưởng niệm vị thuyền trưởng vừa qua đời, tại chùa Huệ Quang, Santa Ana, nói hôm Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Hai. Ông Cường là một trong 96 người được vị thuyền trưởng vớt trong hành trình vượt biển vào lúc 6 giờ 45 phút chiều ngày 14 Tháng Mười Một, 1985, trong lúc chiếc thuyền chở ông đang lênh đênh trên Biển Đông, bị nhiều tàu khác làm lơ trước đó. Ông Cường nói thêm: “Ông là ‘tộc trưởng’ của nhóm 96 người chúng tôi. Ông vừa ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng ông để lại biết bao yêu thương của không những 96 người, mà với cộng đồng Việt Nam.”
25/11/2021(Xem: 29367)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
23/11/2021(Xem: 14811)
314. Vua, Thiền Sư Trần Thái Tông Người thiết lập nền tảng cho Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Đây là Thời Pháp Thoại thứ 314 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 23/11/2021 (19/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
18/11/2021(Xem: 24471)
312. Thiền Sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đời Vua Lý Huệ Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 311 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 18/11/2021 (14/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
16/11/2021(Xem: 4670)
Sào Phủ Hứa Do là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由). Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của): Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Hứa Do trả lời: "Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua." Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm." Sào Phủ lại nói: "Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi." Huỳnh Tịnh Của phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe."
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567