Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con ma nhà họ Đặng

10/04/201313:08(Xem: 4867)
Con ma nhà họ Đặng

phatvanangsujita_1

CON MA NHÀ HỌ ĐĂNG

Ngọc Bích

--- o0o ---

Đang đọc báo ông Hải chợt thấy bóng mấy đứa trẻ lấp ló ngoài cửa phòng, ông đằng hắng giọng và hỏi : Ai đó có chuyện gì không, mấy đứa nhỏ thì thào rồi im lặng, thấy vậy ông độ chừng chắc tụi nó sợ nên ông bước ra hỏi chuyện gì đó mấy cháu, nào các cháu cần ông giúp việc gì đây? Bé Lan lại đây với ông nào, còn An, Mai,Hùng và Tâm cùng lại đây các cháu đã vào trung học rồi, làm sao hôm nay lại rụt rè thế, bộ các cháu không ngoan bị cô giáo rầy phải không?An vội lên tiếng không phải vậy đâu ông ơi, cô giáo khen chúng cháu học tốt và hạnh kiểm tốt nữa đó. Vậy à!Thế các cháu cần gì mà e ngại vậy? Dạ! chúng cháu sợ ông đấy ạ! Sợ ông, ông đâu có làm gì mà các cháu bảo sợ ông… dạ sợ ông rầy đấy ạ.Nầy Hùng cháu lớn nhất trong đám vậy cháu nói cho ông biết chuyện gì đã xảy ra. Dạ thưa ông bé Lan nói là không dám đi chùa nữa đâu!Tại sao vậy cháu Lan? dạ..dạ tại vì lúc nầy có nhiều ma đi chùa lắm ông ạ nên cháu sợ qúa.Làm sao cháu biết được hay là cháu nhìn thấy. Dạ không cháu nghe nói đấy. Ai nói với cháu vậy.

Dạ hôm tết ở trên chùa cháu nghe có mấy bác nói chuyện với nhau đấy. Sao cháu lại lén nghe chuyện người lớn vậy. không phải cháu nghe lén đâu mà vì các bác ấy nói lớn tiếng đấy. Ông Hải chợt cười vì nhìn thấy nét mặt lo lắng của các cháu. Ông nói thôi được vậy các bác ấy nói chuyện gì. Dạ các bác bảo lúc nầy chùa có nhiều ma đăng già đi chùa quá nên dặn là phải cẩn thận để không thôi các ma đăng già phá chùa đó.

Ông Hải bật cười. Ồ! Thì ra là vậy, bé Lan sợ rồi còn ai sợ nữa, dạ còn em Tâm cũng sợ theo đó, Mai và cháu giải thích mãi mà tụi nó không tin nên tụi cháu kéo nó lên nhờ ông giải thích cho nó biết. nhưng mà thấy ông đang đọc sách tụi cháu sợ ông rầy nên không dám vào đó. Vậy à! ồ ông biết con ma đó rồi. Lần sau nếu các cháu cần hỏi gì thì cứ vào phòng ông nhé, còn bây giờ ông và các cháu ra ngoài vườn ngồi cho mát rồi ông sẽ giải thích cho các cháu nghe không chừng nghe xong các lại còn biết cách bắt ma nữa kìa. Thế à ông vậy ông kể cho các cháu nghe đi ông. Mai nói để cháu đi pha bình trà sen cho ông và mời bà ra luôn ông nhé, chắc giờ nầy bà đã tụng kinh xong rồi ông ạ. Ừ!phải đấy cháu ạ…

Hương trà mạn sen bay thơm ngát trong gíó đêm khiến ông Hải thấy thật dể chịu, mùi vị quen thuộc mà ông thường dùng do chính tay bà Hải pha thật là hợp ý ông. Bà lại không quên để một dĩa kẹo đậu phọng cho các cháu nữa. Ông Hải kể lại cho bà nghe các cháu thắc mắc về mấy con ma đăng già rồi hỏi? Vậy chớ bà còn nhớ tên của các vị đại đệ tử của phật không? Bà Hải nói đệ tử của Phật có rất nhiều nhưng có mười vị đai đệ tử đươc tặng danh hiệu là thánh tăng. Đó là những bậc thần thông quảng đại đã cống hiến cả cuộc đòi mình cho chúng sinh cho đạo pháp.

Đó là Tôn giả Đai Ca Diếp được tặng danh hiệu Đầu Đà Đệ Nhất, vị thứ hai làTôn giả Xá Lợi Phất được tặng dang hiệu Trí Huệ đệ nhất, vị thứ ba là tôn giả Muc Kiền Liên được tặng danh hiệu Thần Thông đệ nhất, vị thứ tư là Tôn giả Ca Chiên Diên được tặng danh hiệu Luận Nghị đệ nhất, vị thứ năm là Tôn Giả A Nan Đà được tặng danh hiệu Đa Văn Đệ Nhất, vị thứ sáu là Tôn Giả A Na Luật được tặng danh hiệu Thiên Nhãn Đệ Nhất, vị thứ bảy là Tôn Giả La Hầu La được tặng danh hiệu Mật Hạnh Đệ Nhất, vị thứ tám là Tôn Giả Tu Bồ Đề được tặng danh hiệu Giai Không đệ Nhất, vị thứ chin Tôn Giả Phú

Lâu Na được tặng danh hiệu Thuyết Pháp Đệ Nhất, vị thứ mười Tôn Giả Ưu Ba Ly được tặng danh hiệu Trì Giới Đệ Nhất. Bà Hải vừa dứt lời là các cháu vổ tay hoan hô bà Nội hay quá, bà nhớ hay quá. Ông Hải nói Bà của các cháu có trí nhớ thật là tốt vậy các cháu phải học và nhớ như lời bà vừa kể mới được nhé.

Còn bây giờ ông kể cho các cháu nghe vì sao có câu chuyện về Ma Đăng Già. Ma đăng Già là một cái tên của một cô gái trẻ chứ không phải là con ma như bé Lan tưởng đâu. Các cháu biết không trong số các đệ tử của phật, người có tướng mạo trang nghiêm, trí nhớ thật mạnh mẽ, tánh tình ôn hòa từ bi gương mặt thật truyền cảm, dể mến và tình cảm phong phú ấm áp như vầng dương trong buổi sớm.Vẻ đẹp và tuổi trẽ của ngài A Nan đã khiến cho bao nhiêu là nam nữ trẻ tuổi ái mộ. Một hôm A Nan đi trì bình, ngài bưng bát đi vào thành Xá Vệ, trời nắng chang chang lúc ấy trên đường về đi ngang qua một giếng nước,có cô gái đang lui cui xách nước ngài A Nan bèn dừng chân lại và nói xin cô bố thí cho tôi miếng nước, cô gái ngẩn lên và nhìn thấy vị tỳ kheo trẻ A Nan thì tự nhìn lại mình và nói Bạch Tôn giả phận tôi thuộc dòng hạ tiện làm sao dám cúng dường cho ngài.

Ngài A Nan mới nói rằng : Tôi là một tỳ kheo nên không có tâm phân biệt thấp hèn hay cao sang đâu. Cô gái bèn vui vẻ đem gàu nước đến cúng dường cho A Nan uống xong ngài nói cám ơn và tiếp tục đi.

Còn cô gái thì nhìn theo bóng ngài trong khoảng khắc chợt cô thấy cô yêu mến ngài qúa đổi, tưởng chừng như vĩnh viễn không thể thiếu vắng bóng ngài trong đời cô. Cô về nhà không thiết ăn uống chi cả, cô cảm thấy đau khổ và chỉ muốn chết nếu không chung sống được cùng ngài A Nan, cô khóc lóc cùng với mẹ và xin bà hảy giúp cho cô được kết hôn cùng A Nan, bà mẹ hiểu rằng đó là một việc không bao giờ thực hiện được nhưng vì tình thương con của một người mẹ, nên bà sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà con bà cho đó là hạnh phúc của đời nó. Bà đi đến ngoại đạo xin thỉnh bùa chú để khi ngài A Nan đi khất thực ngang qua thì dùng tà thuật khiến A Nan khi đi ngang nhà thì bước vào trong nhà, nàng Ma Đăng Già mừng rở chạy đến ôm ngài thì ngay lúc ấy A Nan chợt nhớ mình là một vị tỳ kheo nên ngài tưởng đến Phật và cầu xin sự gia hộ của Đức Phật khiến trí huệ của ngài trở lại minh mẩn và ngài trở về tịnh xá bạch Phật. Ngày hôm sau khi A Nan đi khất thực thì cô gái cứ đi theo ngài hoài. Nói cô đừng nên đi theo nhưng cô cũng không nghe, hể ngài đi đâu thì cô gái theo sau lưng. Không biết làm sao A Nan bèn quay trở lại tịnh xá bạch với Đức Phật.

Đức Phật bảo A Nan hảy mời cô gái ấy đến gặp ngài. Nàng Ma Đăng Già vì lòng yêu A Nan nên khi được gặp Phật sẵn sàng nhận tất cả các điều kiện miễn là được làm vợ của ngài A Nan. Đức Phật bảo rằng A Nan là một người xuất gia do đó người muốn cùng sống với A Nan thì cũng phải xuất gia tu đạo ít nhất một năm và mời bà mẹ nàng cùng đến chứng kién ngày nàng xuất gia.

Nàng Ma đăng Già vì lòng mong muốn làm vợ A Nan nên rất nhiệt tình trong việc tu tập, cô học tập rất nghiêm túc, tu tập rất tinh tấn, mối tình si của cô từ từ lắng dịu xuống và cô hiểu được sự sai lầm của mình và tình yêu của mình lúc trước là một sự bất thiện và bất định. Đức Phật thường giảng cho các đệ tử nghe về nguồn gốc của sự khổ đau đó là ngũ dục. Năm sự ham muốn là sắc dục, thính dục, hưong dục, vị dục, xúc dục. Ngũ dục là năm món dục lạc của chúng sanh trong dục giới từ súc sanh đến nhân loại và cả đến thần tiên. Để cho say đắm trong ngũ dục thì cuộc đời bị trói buộc.

Một hôm nàng Ma Đăng Già đến quì dưới chân Phật mà khóc xin sám hối cho sự ngu muội của mình trước kia. Nàng xin nguyện suốt đời của mình là đệ tử Phật, làm một tỳ kheo ni theo chân Đức Phật để hoằng dương chánh pháp.

Ông Hải vừa dứt lời thì Mai và Hùng lên tiếng A! con hiểu rồi, hay quá pháp Phật quả là hay quá. Như vậy nếu là khi chưa hiểu đạo thì nàng Ma đăng Già là con ma phá hoại đạo pháp,còn khi đã hiểu đạo và chứng thánh quả thì cô trở thành sứ giả của Như Lai phải không thưa ông? Đúng rồi đó các cháu, bà Hải ôm bé Lan vào lòng và hỏi thế cháu còn sợ Ma đăng Già nữa không? Bé Lan lắc đầu nói con không sợ nữa đâu thưa bà… Vậy cháu Tâm mai mốt nếu nghe ai nói các cháu biết giải thích phải không. Nếu cháu không biết hoặc không hiểu điều gì thì các cháu phải hỏi chứ đừng làm thing mà lo sợ một mình nghe các cháu. Dạ nghe ạ,dạ nghe cả.. Các cháu ngoan lắm, thôi các cháu chia nhau cho hết dĩa kẹo xong đánh răng, rửa măt rồi đi ngũ, ngày mai đi đón ba má các cháu về.

Bà Hải đưa các cháu vào giường ngủ xong trở ra ngồi xuống cạnh ông Hải và hỏi ông có muốn uống trà thêm không? Ông nói thôi đủ rồi mình ạ, sao trông ông không được vui vậy? Không phải vậy vấn đề khiến tôi đang suy nghĩ là làm thế nào để các con các cháu của chúng ta hiểu đạo một cách đúng đắn. Bà xem chúng ta mãi lo tu cho chúng ta mà chúng ta quên rằng còn có cả thế hệ cháu con nữa đó. Mai đây khi chúng ta quá vãng rồi còn ai nối giữ chánh pháp chứ. Chúng ta để con cháu đi sai đường cũng là lổi lầm của chúng mình nữa đó. Nhiều khi chúng ta nói chuyện mà các cháu không hiểu nên thành ra một sự nhầm lẫn mà cho đến sau nầy sẽ đưa đẩy câu chuyện đi về đâu, lỗi ở ai chúng ta cũng không biết nữa. Để kỳ nầy lên chùa tôi sẽ bạch với thầy để xin thầy có ý kiến!

Theo tôi thì ngoài việc xin ý kiến của quý thầy chúng ta nên tích cực hơn như là hàng tuần ông và tôi thay phiên đến chơi với các cháu thì chúng ta tập cho các cháu học hỏi về những điều cơ bản trong giáo lý của Đức Phật. Rồi tôi sẽ kể cho các cháu nghe các truyện cổ tích Phật giáo từ từ khi các cháu có chút ý thức và hiểu biết thì chúng ta sẽ đề nghị cha mẹ các cháu cho các cháu đi qui y. Ông Hải mỉm cười nói : bà nói sao đúng ý của tôi quá, bà mỉm cười nhìn ông rồi nói thì tôi sống với ông đã mấy mươi năm rồi mà …tục ngữ Việt Nam có câu suy bụng tui ra bụng ông đấy mà, hơn nữa chúng ta vừa là bạn đời vừa là bạn đạo nữa chứ sao! Nên ông nghỉ cái gì tôi liền đoán biết đấy thôi.

Ông Hải cảm động cầm tay người vợ vừa chỉ ánh trăng rằm tháng Tư tròn xoe soi sáng vạn vật quanh mình và nói tôi mường tượng ánh trăng sáng trong đêm chẳng khác ánh đạo vàng soi sáng khắp nẽo tăm tối trên trần gian, ôi hạnh phúc biết bao chúng ta và cả nhân loại đang thọ hưỡng ánh trăng đạo lý trí tuệ ấy!

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5091)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11208)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9388)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7767)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3783)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6344)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87265)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6639)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4870)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]