Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hữu thân hữu khổ

10/04/201313:00(Xem: 4300)
Hữu thân hữu khổ

Hữu Thân Hữu Khổ
Võ Hồng




Sau một buổi cày vất vả, Trâu được tháo ách cho đứng gặm cỏ. Nhưng mệt quá, nhai nuốt không vô, bèn cất tiếng than : - Mẹ sinh chi tuổi Sửu, làm thân trâu cho cực dường này. Ruộng sâu, ruộng sình, ruộng lùm, ruộng lún… kéo cho bật được lưỡi cày, tưởng đứt cái cổ, tưởng đứt hơi luôn. Tưởng gãy lìa cái chân, tưởng ngã gục xuống bùn. Vậy mà thằng chủ cứ giáng thẳng roi mây… khích lệ. Đỉa bám hút máu, ruồi châm hút máu, mưa xối thên lưng, nắng đốt da mông. Đền bù lại là một bó cỏ khô, quanh năm chỉ những cỏ khô!

Nhìn thấy con chó mực đang nằm khoanh ngủ, vừa ngủ vừa ngáy, Trâu huơ chân huých cho một cái. Chó mở mắt, ngáp dài, hỏi:

- Cái gì?

- Mày sướng hơn tao.

Chó ngơ ngác không hiểu. Nhìn bộ mặt mgốc ngếch của Chó, Trâu cười sằng sặc.

- Tao đang suy nghĩ về cảnh khổ của tao, cả ngày kéo cày. Còn mày thì nằm khoanh mà ngủ.

- Lầm to. Lầm to. Chó cười khẩy. Ngủ ngày là vì phải thức suốt đêm coi nhà. Sục sạo đầu dưới, rược sủa đầu trên.. mà đâu phải chỉ coi nhà, còn coi cả khu vườn rộng cho chủ. Bữa ăn hả? Chỉ toàn xương, xương nhá hết nổi, họ mới ném cho. Con của chủ nhà nghịch ngợm, kéo đuôi, cưỡi lưng, mình gừ một tiếng phản đối thì chủ nhà nạt nộ, đánh đá. Tội thân mình, nói năng đâu có được, trời ban cho chỉ độc có tiếng "gừ". Ngoài thiếng sủa.

- Ừ, coi bộ mày cũng khổ. Trâu chép miệng.

- Chỉ cái việc sủa, sủa sao cho đúng cũng không dễ. Gặp người mà chủ nhà khinh thì sủa ít cũng không được. Gặp người mà chủ nhà trọng thì sủa nhiều không cho. Trong việc bảo tồn nòi giống của mình cũng có cái khổ. Loài người thậm chí ích kỷ, xin chó con để nuôi thì toàn xin chó đực, chó cái không ai chịu rước. Mà không có chó cái thì ai đẻ ra chó đực cho chúng nó xin nữa không biết.

- Thôi được, tao thấy mày khổ rồi. Khỏi cần nói nữa.

Nhưng chó như được khơi lòng tâm sự, không chịu ngừng.

- Thêm cái nạn "mộc tồn". Nuôi thấy mập mập là rủ nhau năm bảy tên bợm nhậu, góp riềng góp sả mà "hạ cờ tây".

- Thôi đủ. Thôi đủ. – Trâu la to – Để hỏi coi thằng Ngựa kia. Ngó bộ nó phong lưu mã thượng.

Sau khi nghe Trâu trình bày lý do, Ngựa nhìn Trâu, khẽ lắc đầu, vẻ thương hại : - Hồi nãy mình nghe cụ Trâu dùng danh từ "mã thượng" . Chà, chữ nho gì mà thông thái vậy cụ ? Thằng k� sĩ nó mới phong lưu mã thượng chớ mình thì thượng chỗ nào . Nó ngồi trên lưng mình, thúc gót giày vào hông mình, giật cương cứa hàm mình bắt mình chạy hụt hơi, chạy sùi bọt mép. Vậy không khổ hả ? Vậy là sướng hả ?

Trâu lý nhí : - Mình thấy cậu đẹp mã, có nệm thêu hoa trải trên lưng, có yên da bóng loáng khuy đồng, có lục lạc reo rủng rẻng.

- Thế cậu có thấy những hồi mình phải kéo xe, mình phải thồ lúa, mình phải chở gỗ không ? Nhẹ nhàng lắm chắc ? Hễ hở việc này, con người nó bắt qua việc khác, có bao giờ để yên ? Cái máy bằng sắt thép còn chịu không thấu, nó bắt chạy suốt hăm bốn trên hăm bốn.

- Bù lại cậu được tạc thành tượng, tượng đồng uy nghi, tượng đá lẫm liệt, tượng những vị anh hùng ngồi trên lưng ngựa.

- Đừng thấy mà ham. Xông lên đột phá, con người tranh đoạt quyền lợi với nhau chớ Ngựa có dính líu gì vào đó ? Vậy mà Ngựa phải trải qua biết bao gian lao nhọc nhằn, biết bao nguy hiểm, phơi xác sa trường. So lại thử đi, Ngựa khổ hay Trâu khổ, hay Chó khổ ?

- Chà… chà… Trâu lý nhí.

Chó thì lanh miệng hơn, biết bắt chước người, biết nói nịnh : - Dạ em thấy anh khổ hơn em.

Giã từ Ngựa và Chó, Trâu bước lững thững

vừa ngẫm nghĩ. Hỏi hai đứ�a thì cả hai đều than khổ. Mình nữa là ba. Tại sao vậy cà ? Tại… ? Tại… ?

Đang trầm ngâm suy nghĩ, chợt có một con Chìa vôi vụt hót lên sát tai làm Trâu giật mình. Con chim đang đậu ở một cành mù-u mọc chìa ra đường. Nhìn con Chìa vôi, trí thông minh của Trâu chợt lóe.

- Này chị Chìa vôi, như Chó, Ngựa, và tôi đều khổ là do chúng tôi có tới bốn chân và chân đi giậm đất. Chị có hai cánh bay thì chắc là chị không khổ.

Chìa vôi liến thoắng trả lời liền : - Ờ mình không có khổ. Mình có hai vạch trắng dọc theo cái đuôi đây này. Đẹp không ? Ủ�a, mà "khổ" là cái gì vậy ?

Trâu bật cười không giữ được.

- Khổ nghĩa là… mình đói, mình khát, mình kéo cày nặng nhọc… mình bị chủ đánh, mình nằm chuồng dột…

Chìa vôi gật gật đầu : - À, vậy là hiểu rồi. Mình có đói. Mấy bữa trời mưa dầm, mưa thúi đất, mưa suốt ngày đêm, mình nằm trong ổ đói phờ râu, đói mờ con mắt, đói muốn mửa mật xanh mật vàng. Mình không có nằm chuồng dột, chỉ cái ổ của mình mưa to nước xối vô như thác đổ, ướt lóp ngóp lạnh run. Cha lũ nhỏ chết năm ngoái cũng vì bị mưa ướt, sưng phổi cấp tính, điều trị không kịp.

Trâu gật gật đầu, nói chậm rải : - Vậy là cũng có… khổ…

Chìa vôi vội cướp lời liền : - Khổ rõ ràng đi chớ. Đang đứng cất tiếng hát cho vui, thằng Người ta lén núp trong bụi, gài một hòn đá vào cái ná cao su, gài một mũi tên lên giây cung, nhắm nhía, rồi thả tay, vậy là mình ngã nhào chết không kịp kêu. Khổ rõ ràng đi chớ, khổ nhất trần gian. Bà má mình năm xưa chết cũng vì mũi tên hòn đạn.

Đồng ý là Chìa vôi nó cũng khổ, nhưng Trâu không tin hết những điều nó nói xoen xoét. Cái gì mà chết nước, gia đình nó cũng có góp phần, mà chết đạn cũng có.

Trên đường về, Trâu tạt lại cái mương con uống nước. Trí óc suy nghĩ đâu đâu. Trâu hụt chân đánh "ùm" một tiếng, nước văng tung tóe. May không lộn nhào, hú hồn. Một con cá rô suýt bị giậm, thoát chết, miệng the thé : - Đi cái kiểu gì ? Con mắt để đâu ? Chút xíu nữa. Đương rình con Nhện nước, sửa soạn búng tới chụp thì gặp trúng đồ cô hồn. Mình đói mấy bữa bay đây. Đồ đui.

- Xin chị bỏ lỗi. Con mắt tôi bị vảy cá…

Chết chết ! – Trâu thầm nghĩ – Lại kêu nhằm tên tộc của nó : Cá ! Nó thưởng mình muốn nói xỏ xiên.

- … Dạ, xin chị bỏ lỗi. Mà sao chị bị bỏ đói vậy ?

- Thằng Người ta nó chận mương, đắp bờ, tát nước để bắt tụi tao, không thấy sao ? Bà con họ hàng tao chết vô số kể. May tao nhỏ người núp trong bụi lác, tu6I nó không thấy. Thoát chết. Ba ngày cứ núp trong bụi lác, đâu có dám mò ra kiếm mồi.

- Ổ, khổ thân cho chị.

- Lũ nó đang kho, đang nướng, đang chiên, đang um, đang nấu canh chua bà con tao.

- Ờ, cả họ hàng chị đang khổ, còn lũ Người thì đang sướng.

- Tụi tao khổ đủ cách. Chúng nó móc mồi ngồi câu, chúng nó câu cắm khỏi mất công ngồi, chúng nó đánh lưới, chúng nó thả lờ, chúng nó ụp nơm, chúng nó đứng nhá, chúng nó thả chà, chúng nó thuốc bằng nhựa cây độc, chúng nó ném thuốc nổ, chúng nó đâm bằng cây lao… ôi chao, kể sao cho hết.

Trâu chép miệng : - Đích thực là khổ. Khổ còn cãi vào đâu được. Khổ nhất trần gian.

Buồn bã, Trâu không còn muốn hỏi ai nữa. Cái gì mà bốn chân đạp đất cũng khổ, hai cánh bay trên trời cũng khổ, mà có vây lội dưới nước cũng khổ. Rốt cuộc, chỉ có lũ Người là sướng. Loài nào cũng bị nó ăn hiếp. Trâu lặng lẽ về chuồng nằm. Bầy muỗi vo ve ào tới đốt, nó cũng không buồn lấy đuôi xua nữa. Đèn ở nhà trên tắt đã từ lâu. Đêm tối om. Ô�ng chủ bà chủ chắc đã ngủ say. Những người sung sướng thường dễ ngủ. Tiếng con Mực "khổ" sủa đổng một nơi bờ rào. Rồi im lặng. Đêm lặng thinh.

Chợt từ nhà trên tiếng ông chủ vang xuống, nghe rõ mồn một : - Bà làm khổ tôi vừa vừa chớ. Hồi tôi cưới bà, nhà còn nghèo, bà bắt tôi làm lụng đầu tắt mặt tối. Khi khá lên, bà mè nheo bắt tôi chạy kiếm cho được cái chức cái tước. Chức nhỏ, bà bắt chạy cho được chức to. Chữ nghĩa tôi không mấy hột thì ai chịu giao chức to cho ? Vậy là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia bà cứ chê bai, dằn vặt tôi. Họ xa nhà tôi có thằng buôn lậu ở tù, bà cũng đem tôi ra sỉ vả. Họ mẹ tôi có con nhỏ chửa hoang, bà cũng xách tôi ra mà dạy luân lý, đạo đức. Bỏ cái này, chụp cái khác, cả ngày làm việc quần quật, vậy mà có đêm nào bà cho tôi ngủ được yên đâu ? Con trâu, con ngựa, kéo cày kéo xe ban ngày, nhưng ban đêm chúng nó được nằm nghỉ ( nghe nhắc đến tên mình, Trâu giật mình ). Tôi thì không. Bà hành hạ tôi mỗi giờ. Nói thiệt với bà, con trâu con ngựa, thậm chí con chó còn sướng hơn tôi.

Nghe ông chủ phân bì với mình, Trâu bỗng bật cười không giữ được. Cười ngả nghiêng, bò lê ra đất mà cười. Miệng đang nhai rơm mà cười quá mạnh, một cọng rơm chạy ra lỗ mũi.

( Trích "Chúng tôi có mặt")



- o0o -


Vi tính : Hải Hạnh Ngọc Dung

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4703)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6627)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4851)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10106)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3624)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4824)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5057)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7535)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4235)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13461)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]