Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Linh vị nơi hậu tổ.

10/04/201312:56(Xem: 2979)
Linh vị nơi hậu tổ.


LINH VỊ NƠI HẬU TỔ

Dương Kinh Thành

---o0o---

Bài viết riêng cho GÐPT Ðức Tâm 

Hồi ấy, khi tuổi tráng niên của tôi còn đủ sức dặm ngàn mây gió, một buổi dừng chân là một kỷ niệm đáng nhớ. Lần này, một ngôi chùa ni ven tỉnh lộ miền duyên hải. Ðược ni sư trụ trì cho phép nghỉ lại chẳng những một đem mà nhiều đêm cũng được chỉ bởi vì ni sư phát hiện ra tôi (...) “Tạo điều kiện cho con để con cống hiến cho văn hóa Phật giáo mình, có chi mô”. Ni sư chân tình đến thế. Việc đầu tiên và là thủ tục của tất cả những ai đến chùa là lễ Phật. Trước khi lễ Phật phải lễ Tổ, và chuyện của tôi dừng lại ngay chốn này. Tôi ngạc nhiên: Linh vị của vị Tổ thứ ba của ngôi chùa này chỉ là một thúng kiến thủ tinh trong suốt, trong đó chỉ là vài cọng tre khô, cũ kĩ, có dấu mọc đục, dính vài miếng giấy màu, loại dùng bao tập học sinh hồi đó, tất cả được chư ni cột gọn bằng một cái nơ vàng hiền hậu. “HÌnh ảnh, linh vị của vị này cũng có, chư tôn đức ngày xưa chỉ thở ri, sau này chúng tôi có ý muốn bày thêm linh vị và ảnh ra nhưng nghĩ lại làm rứa răng phải, bao đời nớ tới ni vẫn một lòng y giáo phụng hành”.

Tôi giật thót người vì sự hiện diện bất ngờ của ni sư sau lưng tôi thì ít mà giật mình là ở cái việc lạ lùng đến thế của một ni tổ ngày nào.

Chuyện kể ràng ngày đó 196... vùng này còn lắm hoang sơ, cư dân thưa thớt, đói nghèo là chuyện nắng mưa thường ngày. Chùa này ngày đó cũng ọp ẹp vài gian mái tranh, vậy mà chiến tranh cũng không từ bỏ nơi này, ập xuống triền miên khiến cảnh khổ ngày càng thêm khổ. Rồi có một hôm, hình như chiến tranh muốn xóa tên ngôi làng bé nhỏ nên cày xới nó suốt ba ngày đêm không ngớt. Dân làng di tản gần hết, người còn lại chẳng ai khác hơn là các thây chết những con người xấu số không qua được ngày chiến chinh. Ðêm thứ tư, khi tiếng súng đạn tạm lắng, thầy (ni sư trụ thỉ lúc ấy và theo cách gọi của ni giới dành cho vị Bổn sư của mình) được vị thị giã chở hối hả về chùa trên chiếc xe đạp cọc cạch leo lét ánh đèn bão đong đưa nơi ghi đông. Về không phải để thăm chùa còn lại những gì hoặc về không phải để lấy vài món đồ lúc di tản hối hả chưa kịp mang theo; mà về để lấp vài thi thể của chư ni và của vài người dân Phật tử qanh vùng và để nơi chánh điện ngôi chùa đổ nát nằm giữa vùng chiến sự thầy trò cất lên lời kinh siêu độ, an ủi mãnh đời xấu số đã chịu phận cộng nghiệp với đất nước thuở loạn ly. Trước khi xe đạp quẹo vào đường để dẫn vào chùa, no sư bảo dừng lại, ni sư dáo dác tìm nơi phát ra tiếng nấc yếu ớt: -“Ðây, đây” – vị thị giả phát hiện – Mô Phật! Bạch thầy một bé gái 9 tuổi!

Ni sư tiến lại gần vị thì giã cầm đèn bão gơ cao lên, đôi mắt già nua cố gắng thu hết hình ảnh tang thương trần thế, rơi hai giọt lệ:

- Răng mà khổ ri? Cha mẹ mô mà...!

Người nằm bên vũng máu kia là mẹ em bé, còn em hoảng loạn sơ hãi cộng với đói khát không còn sức phát ra tiếng khác. Nhưng là không, em nằm tựa bên xác mẹ mà tay vẫn ôm chặt chiếc lồng đèn (có lẽ ngôi sao) đã gãy vụn (chả trách sao tôi cứ ngạc nhiên khi bước vào ngôi chùa này mà đầu tiên nơi đầu ngõ lại có một ngôi mộ nằm ở cách giao lộ tuyệt đẹp). Em bé được ni sư bồng vào chùa và đến mấy ngày sau trên giường nằm điều dưỡng sức em vẫn không rời nhúm lồng đèn gãy nát ấy.

- Thôi con bỏ nó đi, để sư cô làm lại cho cái mới.

Mỗi lần có ai dụ dỗ thế, em lập tức bật khóc và càng khóc lớn hơn như tưng thêm sức mạnh cho đôi bàn tay ghì chặt thêm chiếc lồng đèn. Chẳng những thế không cầm được chiếc lồng đèn trên tay từ việc ăn uống tắm rửa v.v... em không chịu vâng lời. Biết việc đó ẩn chứa một tiềm tàng duyên khởi nào đó ni sư dặn dò chúng tôi nên tránh thắc mắc đến lồng đèn và ngược lại phải càng tỏ ra trân trọng chiếc lồng đèn như chính em trân trọng mỗi lần đụng đến.

Sau đó qua những lời kể của em, chắp vá lại thì sự việc đã rõ ràng. Cũng không đến nỗi bí hiểm ly kỳ nhưng trên hết vẫn lấp lánh sáng ngời nghĩa cử hiếu đạo. Tất cả chỉ vì nghèo khổ mà ra cả, thế nhưng nó không phải là lý do để đổ tháo sự tha hóa vào đấy vô tội vạ.

Cái nghèo đáng nói ở đây là nhờ nó mà sáng ngời chữ hiếu đạo, nhờ nó mà có một đường đi thẳng lối và nhờ nó mà con người ta cảm thấy hạnh phúc. Tôi không dám mở đóng ngoạc kép cho hai từ hạnh phúc này vì lẽ làm như vậy hóa ra mai mĩa em bé, nhưng nếu ai còn thắc mắc chưa vượt qua lớp vỡ lòng thì tôi sẽ không ngần ngại chỉ hình ảnh cô bé ôm chiếc lồng đèn đưa vào ngực một cách đầy hạnh phúc đó sao! Sợ mất hạnh phúc đó sao!

Lồng đèn ngôi sao! Dễ làm, chỉ cần chặt hai ống trúc bằng nhau, chẻ dọc đều và chọn ra mười cây. Tiếp theo xếp thành hình ngôi sao năm cánh bằng nhau rồi dùng thun hoặc kẽm buộc lại mỗi đàu, làm hai cái như thế sau đó đặt chồng chúng lên nhau, hai mặt xanh xoay ra ngoài, đùng thun hoặc kẽm buộc năm cánh của mặt ngôi sao lại, sau tiếp chặt năm cây chống bằng nhau và chèn vào giữa mỗi nách ngôi sao, ngôi sao đã nổi, việc còn lại là dán giấy màu (hồi đó là giấy kiếng là sang lắm, chỉ dùng giấy màu bao tập thôi, dễ dán, dễ mua) còn trúc tre làng nào mà chẳng có.

Vậy đó, dễ làm, dễ có mà lại có những gia đình muốn có một cái đèn ông sao cho con chơi cũng là một điều khó. Hứa với con sẽ làm một cái để có chơi với chúng bạn mà lời hứa cứ đi theo mấy mùa trung thu qua, đến mùa trung thu kia mới dán được dù méo xẹo, dán giấy thìn chấp vá nhưng em vui đùa quá là vui, em chơi tung tăng với nó qua ba mùa trung thu, lần này là lần thứ tư, ngay cái đêm định mệnh này, mẹ không có thì giờ đâu mà làm cho con chơi dù mẹ có hứa, thậm chí nếu gặt lúa mướn kỳ này bộn sẽ dành tí ra phố huyện tìm mua cho con cái lồng đèn con cá hay con bướm gì đó nhưng con chả thèm đâu vì con biết nếu mình bộc lộ ý thích ham vui chỉ làm tăng thêm nỗi lo lắng, cực nhọc cho mẹ, thôi con chơi cái này tới lớn luôn. Lúc đó hình như mẹ bị “bụi bay vô mắt” hay sao đó mà cứ thấy bà xoay lưng kéo vạt áo lau hoài. Ôi! nhìn cái lưng mẹ càng ngày càng còng thêm; lưng áo vệt muối giăng đầy, sờn tua quá nhiều.

- Mẹ mi khóc đấy!

- Mẹ mi nghe rứa vui mới biết là con rất thương mẹ...

Quý sư cô nói thế nhưng con cũng biết: con sinh ra, ba con đâu mất, cũng chả biết hai bên ông bà nội ngoại là ai, ở đâu, cho nên tất cả đều là hình dáng của mẹ con thôi. Mẹ con cho con cục kẹo, cái bánh, con ráng nhai và ăn, ăn cho thiệt lâu vì sợ mau hết, mẹ may cho con cái áo mới con bận, bận hoài đến chật thì thôi. Huống chi là cái lồng đèn này, xin quý sư cô cho con giũ nó, dù nó không còn là nguyên vẹn nữa.

Cô Nhã đem đến chiếc hộp bằng cacton, nó có chiều dài gần bằng chiếc hộp đựng đèn cầy lớn, được dán giấy hoa rất cẩn thận, có nắp đậy hẳn hoi:

Ðây nì, thầy biểu cô dán cho con cái hộp ni để đựng cái lồng đèn cho kín, giữ được lâu và để nơi mô cũng được.

Từ đó trong cái hộp là cái lồng đèn đầy ắp kỷ niệm, luôn để ở đầu nằm. Lớn hơn chút chiếc hộp để ở bàn học và khi thọ tì kheo rồi nó lại trịnh trọng nằm nơi cao nhất trong phòng.

Vì nó, nhờ nó thậm chí tại nó mà có ngày hôm nay. Cái đêm ấy vì đang giấc ngủ, mẹ lay dậy bồng em chạy đi hòa theo dòng người hỗn loạn, khi con tỉnh ngủ là lúc mẹ bồng con chạy khá xa khi đó em khóc ré lên vì không phải sợ cảnh đau khổ, lửa khói mà là vì không có chiếc lồng đèn, không có nó em khóc hoài. Ðến ngày hôm sau chịu không thấu cái ước muốn của “con nhà nghèo” mẹ bồng con đi ngược dòng người, đi ngược làn tên mũi đạn để lấy cái lồng đèn, cho con mang theo suốt cả cuộc đời.

Sau này khi trở thành một vị ni sư, kế thế trụ trì ngôi chùa này, phía sau lưng bàn Phật nơi tư thất vẫn là cái hộp giấy cũ kĩ ấy không khác, không dán mới. Lâu lâu người ta thấy ni sư lấy ra để trước mặt, lau lau phủi phủi rồi gởi chút ngậm ngùi xa xăm. Hèn chi có những khi nói chuyện nhân các lễ Vu lan (tôi không dám dùng từ thuyết pháp vì thực ra là như thế bởi giáo luật rất nghiệm ngặt về vấn đề pháp sư nơi ni giới) hay những khi được mời thỉnh giảng ở các trường hạ mọi người đều thấy ni sư để cái hộp trước mặt mãi không nói gì liên quan đến nó.

Khi thân huyển giã sắp trở về tứ đại, trên giường nằm ni sư vẫn để chiếc hộp nằm xuôi bên theo cánh tay, dù ai có nói gì ni sư vẫn lặng thinh như muôn một, có trả lời cũng chỉ là cái cúi đầu kèm theo câu “ngạn ngữ” A DI ÐÀ PHẬT. Còn tôi, tôi có thể nói rằng ni sư quá CHẤP NÊ, bám víu cái huyển giã, nhưng đấy, quan trọng là cái khô khốc này đây, đúng là huyền giã trong một thế giới huyển giã cho nên ni sư phải chấp nê vào cái tốt nhất: sự hiếu đạo – nhân bản để làm bè cứu sinh. Ðời vốn là biển khổ song mê, phao, bè, tàu, thuyền... cũng trên sông mê bến khổ. Ðấy, nhưng tạm thời muốn còn hơi thở để không muốn bị nhấn chìm; hãy chấp vào mấy thứ đó để mà tiếp tục thở, để thực hiện những hoài bão tốt đẹp còn dỡ dang.

Lúc chúng tôi quây quần bên giường bệnh, ni sư thều thào:

“T. đâu: Ð. Nữa, còn N.H đâu? Răng hôm ni đứa mô cũng sụt sùi tề. Thôi nghe thầy dặn nì: Cha mẹ thầy, thầy thờ thầy thắp hương bái lạy hàng ngày, vì rứa khi ta về với Phật các con cũng không nên bận tâm chi và hãy hóa vãn chiếc hộp này trong ngày Bách Nhật luôn, hãy thờ sư ông (vị ni sư – và là bổn sư cứu ngày xưa) và các sư bác... đủ rồi. Ðừng làm linh vị ta, áng mặt thầy ta, ta có tội...” Chỉ đến đó thôi rồi nghẹn lời, tay mò mẫm chiếc hộp chư ni tiếp đưa và ni sư ôm vào lòng để rồi lần đầu tiên chúng tôi thấy nước mắt ni sư. Cũng từ lúc đó ni sư đã ni sư đã về với Phật.

Vị ni sư tuyển tôi tận cổng, đứng trước ngôi mộ của người mẹ gục ngã năm nào của vị ni sư nọ, ngay ngã rẽ ra đường cái, hình như “bụi cũng bay vào mắt tôi”, tôi biết tôi khóc vì cảm thấy quá bé nhỏ trước lòng hiếu hạnh đầy nước mắt này.

Trung thu 2546

Giác Ðạo


---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/12/2021(Xem: 3047)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 6582)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 18058)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 3538)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
30/11/2021(Xem: 25338)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
26/11/2021(Xem: 3560)
“‘Giống như một vị Bồ Tát’ là người mà tôi có thể mô tả về thuyền trưởng Jeon Je Young,” ông Nguyễn Hùng Cường, người tổ chức lễ tưởng niệm vị thuyền trưởng vừa qua đời, tại chùa Huệ Quang, Santa Ana, nói hôm Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Hai. Ông Cường là một trong 96 người được vị thuyền trưởng vớt trong hành trình vượt biển vào lúc 6 giờ 45 phút chiều ngày 14 Tháng Mười Một, 1985, trong lúc chiếc thuyền chở ông đang lênh đênh trên Biển Đông, bị nhiều tàu khác làm lơ trước đó. Ông Cường nói thêm: “Ông là ‘tộc trưởng’ của nhóm 96 người chúng tôi. Ông vừa ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng ông để lại biết bao yêu thương của không những 96 người, mà với cộng đồng Việt Nam.”
25/11/2021(Xem: 29904)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
23/11/2021(Xem: 15008)
314. Vua, Thiền Sư Trần Thái Tông Người thiết lập nền tảng cho Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử Đây là Thời Pháp Thoại thứ 314 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 23/11/2021 (19/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
18/11/2021(Xem: 24982)
312. Thiền Sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đời Vua Lý Huệ Tông) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 311 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 18/11/2021 (14/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567