Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Linh vị nơi hậu tổ.

10/04/201312:56(Xem: 4163)
Linh vị nơi hậu tổ.


LINH VỊ NƠI HẬU TỔ

Dương Kinh Thành

---o0o---

Bài viết riêng cho GÐPT Ðức Tâm 

Hồi ấy, khi tuổi tráng niên của tôi còn đủ sức dặm ngàn mây gió, một buổi dừng chân là một kỷ niệm đáng nhớ. Lần này, một ngôi chùa ni ven tỉnh lộ miền duyên hải. Ðược ni sư trụ trì cho phép nghỉ lại chẳng những một đem mà nhiều đêm cũng được chỉ bởi vì ni sư phát hiện ra tôi (...) “Tạo điều kiện cho con để con cống hiến cho văn hóa Phật giáo mình, có chi mô”. Ni sư chân tình đến thế. Việc đầu tiên và là thủ tục của tất cả những ai đến chùa là lễ Phật. Trước khi lễ Phật phải lễ Tổ, và chuyện của tôi dừng lại ngay chốn này. Tôi ngạc nhiên: Linh vị của vị Tổ thứ ba của ngôi chùa này chỉ là một thúng kiến thủ tinh trong suốt, trong đó chỉ là vài cọng tre khô, cũ kĩ, có dấu mọc đục, dính vài miếng giấy màu, loại dùng bao tập học sinh hồi đó, tất cả được chư ni cột gọn bằng một cái nơ vàng hiền hậu. “HÌnh ảnh, linh vị của vị này cũng có, chư tôn đức ngày xưa chỉ thở ri, sau này chúng tôi có ý muốn bày thêm linh vị và ảnh ra nhưng nghĩ lại làm rứa răng phải, bao đời nớ tới ni vẫn một lòng y giáo phụng hành”.

Tôi giật thót người vì sự hiện diện bất ngờ của ni sư sau lưng tôi thì ít mà giật mình là ở cái việc lạ lùng đến thế của một ni tổ ngày nào.

Chuyện kể ràng ngày đó 196... vùng này còn lắm hoang sơ, cư dân thưa thớt, đói nghèo là chuyện nắng mưa thường ngày. Chùa này ngày đó cũng ọp ẹp vài gian mái tranh, vậy mà chiến tranh cũng không từ bỏ nơi này, ập xuống triền miên khiến cảnh khổ ngày càng thêm khổ. Rồi có một hôm, hình như chiến tranh muốn xóa tên ngôi làng bé nhỏ nên cày xới nó suốt ba ngày đêm không ngớt. Dân làng di tản gần hết, người còn lại chẳng ai khác hơn là các thây chết những con người xấu số không qua được ngày chiến chinh. Ðêm thứ tư, khi tiếng súng đạn tạm lắng, thầy (ni sư trụ thỉ lúc ấy và theo cách gọi của ni giới dành cho vị Bổn sư của mình) được vị thị giã chở hối hả về chùa trên chiếc xe đạp cọc cạch leo lét ánh đèn bão đong đưa nơi ghi đông. Về không phải để thăm chùa còn lại những gì hoặc về không phải để lấy vài món đồ lúc di tản hối hả chưa kịp mang theo; mà về để lấp vài thi thể của chư ni và của vài người dân Phật tử qanh vùng và để nơi chánh điện ngôi chùa đổ nát nằm giữa vùng chiến sự thầy trò cất lên lời kinh siêu độ, an ủi mãnh đời xấu số đã chịu phận cộng nghiệp với đất nước thuở loạn ly. Trước khi xe đạp quẹo vào đường để dẫn vào chùa, no sư bảo dừng lại, ni sư dáo dác tìm nơi phát ra tiếng nấc yếu ớt: -“Ðây, đây” – vị thị giả phát hiện – Mô Phật! Bạch thầy một bé gái 9 tuổi!

Ni sư tiến lại gần vị thì giã cầm đèn bão gơ cao lên, đôi mắt già nua cố gắng thu hết hình ảnh tang thương trần thế, rơi hai giọt lệ:

- Răng mà khổ ri? Cha mẹ mô mà...!

Người nằm bên vũng máu kia là mẹ em bé, còn em hoảng loạn sơ hãi cộng với đói khát không còn sức phát ra tiếng khác. Nhưng là không, em nằm tựa bên xác mẹ mà tay vẫn ôm chặt chiếc lồng đèn (có lẽ ngôi sao) đã gãy vụn (chả trách sao tôi cứ ngạc nhiên khi bước vào ngôi chùa này mà đầu tiên nơi đầu ngõ lại có một ngôi mộ nằm ở cách giao lộ tuyệt đẹp). Em bé được ni sư bồng vào chùa và đến mấy ngày sau trên giường nằm điều dưỡng sức em vẫn không rời nhúm lồng đèn gãy nát ấy.

- Thôi con bỏ nó đi, để sư cô làm lại cho cái mới.

Mỗi lần có ai dụ dỗ thế, em lập tức bật khóc và càng khóc lớn hơn như tưng thêm sức mạnh cho đôi bàn tay ghì chặt thêm chiếc lồng đèn. Chẳng những thế không cầm được chiếc lồng đèn trên tay từ việc ăn uống tắm rửa v.v... em không chịu vâng lời. Biết việc đó ẩn chứa một tiềm tàng duyên khởi nào đó ni sư dặn dò chúng tôi nên tránh thắc mắc đến lồng đèn và ngược lại phải càng tỏ ra trân trọng chiếc lồng đèn như chính em trân trọng mỗi lần đụng đến.

Sau đó qua những lời kể của em, chắp vá lại thì sự việc đã rõ ràng. Cũng không đến nỗi bí hiểm ly kỳ nhưng trên hết vẫn lấp lánh sáng ngời nghĩa cử hiếu đạo. Tất cả chỉ vì nghèo khổ mà ra cả, thế nhưng nó không phải là lý do để đổ tháo sự tha hóa vào đấy vô tội vạ.

Cái nghèo đáng nói ở đây là nhờ nó mà sáng ngời chữ hiếu đạo, nhờ nó mà có một đường đi thẳng lối và nhờ nó mà con người ta cảm thấy hạnh phúc. Tôi không dám mở đóng ngoạc kép cho hai từ hạnh phúc này vì lẽ làm như vậy hóa ra mai mĩa em bé, nhưng nếu ai còn thắc mắc chưa vượt qua lớp vỡ lòng thì tôi sẽ không ngần ngại chỉ hình ảnh cô bé ôm chiếc lồng đèn đưa vào ngực một cách đầy hạnh phúc đó sao! Sợ mất hạnh phúc đó sao!

Lồng đèn ngôi sao! Dễ làm, chỉ cần chặt hai ống trúc bằng nhau, chẻ dọc đều và chọn ra mười cây. Tiếp theo xếp thành hình ngôi sao năm cánh bằng nhau rồi dùng thun hoặc kẽm buộc lại mỗi đàu, làm hai cái như thế sau đó đặt chồng chúng lên nhau, hai mặt xanh xoay ra ngoài, đùng thun hoặc kẽm buộc năm cánh của mặt ngôi sao lại, sau tiếp chặt năm cây chống bằng nhau và chèn vào giữa mỗi nách ngôi sao, ngôi sao đã nổi, việc còn lại là dán giấy màu (hồi đó là giấy kiếng là sang lắm, chỉ dùng giấy màu bao tập thôi, dễ dán, dễ mua) còn trúc tre làng nào mà chẳng có.

Vậy đó, dễ làm, dễ có mà lại có những gia đình muốn có một cái đèn ông sao cho con chơi cũng là một điều khó. Hứa với con sẽ làm một cái để có chơi với chúng bạn mà lời hứa cứ đi theo mấy mùa trung thu qua, đến mùa trung thu kia mới dán được dù méo xẹo, dán giấy thìn chấp vá nhưng em vui đùa quá là vui, em chơi tung tăng với nó qua ba mùa trung thu, lần này là lần thứ tư, ngay cái đêm định mệnh này, mẹ không có thì giờ đâu mà làm cho con chơi dù mẹ có hứa, thậm chí nếu gặt lúa mướn kỳ này bộn sẽ dành tí ra phố huyện tìm mua cho con cái lồng đèn con cá hay con bướm gì đó nhưng con chả thèm đâu vì con biết nếu mình bộc lộ ý thích ham vui chỉ làm tăng thêm nỗi lo lắng, cực nhọc cho mẹ, thôi con chơi cái này tới lớn luôn. Lúc đó hình như mẹ bị “bụi bay vô mắt” hay sao đó mà cứ thấy bà xoay lưng kéo vạt áo lau hoài. Ôi! nhìn cái lưng mẹ càng ngày càng còng thêm; lưng áo vệt muối giăng đầy, sờn tua quá nhiều.

- Mẹ mi khóc đấy!

- Mẹ mi nghe rứa vui mới biết là con rất thương mẹ...

Quý sư cô nói thế nhưng con cũng biết: con sinh ra, ba con đâu mất, cũng chả biết hai bên ông bà nội ngoại là ai, ở đâu, cho nên tất cả đều là hình dáng của mẹ con thôi. Mẹ con cho con cục kẹo, cái bánh, con ráng nhai và ăn, ăn cho thiệt lâu vì sợ mau hết, mẹ may cho con cái áo mới con bận, bận hoài đến chật thì thôi. Huống chi là cái lồng đèn này, xin quý sư cô cho con giũ nó, dù nó không còn là nguyên vẹn nữa.

Cô Nhã đem đến chiếc hộp bằng cacton, nó có chiều dài gần bằng chiếc hộp đựng đèn cầy lớn, được dán giấy hoa rất cẩn thận, có nắp đậy hẳn hoi:

Ðây nì, thầy biểu cô dán cho con cái hộp ni để đựng cái lồng đèn cho kín, giữ được lâu và để nơi mô cũng được.

Từ đó trong cái hộp là cái lồng đèn đầy ắp kỷ niệm, luôn để ở đầu nằm. Lớn hơn chút chiếc hộp để ở bàn học và khi thọ tì kheo rồi nó lại trịnh trọng nằm nơi cao nhất trong phòng.

Vì nó, nhờ nó thậm chí tại nó mà có ngày hôm nay. Cái đêm ấy vì đang giấc ngủ, mẹ lay dậy bồng em chạy đi hòa theo dòng người hỗn loạn, khi con tỉnh ngủ là lúc mẹ bồng con chạy khá xa khi đó em khóc ré lên vì không phải sợ cảnh đau khổ, lửa khói mà là vì không có chiếc lồng đèn, không có nó em khóc hoài. Ðến ngày hôm sau chịu không thấu cái ước muốn của “con nhà nghèo” mẹ bồng con đi ngược dòng người, đi ngược làn tên mũi đạn để lấy cái lồng đèn, cho con mang theo suốt cả cuộc đời.

Sau này khi trở thành một vị ni sư, kế thế trụ trì ngôi chùa này, phía sau lưng bàn Phật nơi tư thất vẫn là cái hộp giấy cũ kĩ ấy không khác, không dán mới. Lâu lâu người ta thấy ni sư lấy ra để trước mặt, lau lau phủi phủi rồi gởi chút ngậm ngùi xa xăm. Hèn chi có những khi nói chuyện nhân các lễ Vu lan (tôi không dám dùng từ thuyết pháp vì thực ra là như thế bởi giáo luật rất nghiệm ngặt về vấn đề pháp sư nơi ni giới) hay những khi được mời thỉnh giảng ở các trường hạ mọi người đều thấy ni sư để cái hộp trước mặt mãi không nói gì liên quan đến nó.

Khi thân huyển giã sắp trở về tứ đại, trên giường nằm ni sư vẫn để chiếc hộp nằm xuôi bên theo cánh tay, dù ai có nói gì ni sư vẫn lặng thinh như muôn một, có trả lời cũng chỉ là cái cúi đầu kèm theo câu “ngạn ngữ” A DI ÐÀ PHẬT. Còn tôi, tôi có thể nói rằng ni sư quá CHẤP NÊ, bám víu cái huyển giã, nhưng đấy, quan trọng là cái khô khốc này đây, đúng là huyền giã trong một thế giới huyển giã cho nên ni sư phải chấp nê vào cái tốt nhất: sự hiếu đạo – nhân bản để làm bè cứu sinh. Ðời vốn là biển khổ song mê, phao, bè, tàu, thuyền... cũng trên sông mê bến khổ. Ðấy, nhưng tạm thời muốn còn hơi thở để không muốn bị nhấn chìm; hãy chấp vào mấy thứ đó để mà tiếp tục thở, để thực hiện những hoài bão tốt đẹp còn dỡ dang.

Lúc chúng tôi quây quần bên giường bệnh, ni sư thều thào:

“T. đâu: Ð. Nữa, còn N.H đâu? Răng hôm ni đứa mô cũng sụt sùi tề. Thôi nghe thầy dặn nì: Cha mẹ thầy, thầy thờ thầy thắp hương bái lạy hàng ngày, vì rứa khi ta về với Phật các con cũng không nên bận tâm chi và hãy hóa vãn chiếc hộp này trong ngày Bách Nhật luôn, hãy thờ sư ông (vị ni sư – và là bổn sư cứu ngày xưa) và các sư bác... đủ rồi. Ðừng làm linh vị ta, áng mặt thầy ta, ta có tội...” Chỉ đến đó thôi rồi nghẹn lời, tay mò mẫm chiếc hộp chư ni tiếp đưa và ni sư ôm vào lòng để rồi lần đầu tiên chúng tôi thấy nước mắt ni sư. Cũng từ lúc đó ni sư đã ni sư đã về với Phật.

Vị ni sư tuyển tôi tận cổng, đứng trước ngôi mộ của người mẹ gục ngã năm nào của vị ni sư nọ, ngay ngã rẽ ra đường cái, hình như “bụi cũng bay vào mắt tôi”, tôi biết tôi khóc vì cảm thấy quá bé nhỏ trước lòng hiếu hạnh đầy nước mắt này.

Trung thu 2546

Giác Ðạo


---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5688)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4624)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37097)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5302)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8687)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13218)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20955)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6568)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]