Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những người muôn năm cũ...

07/01/201806:17(Xem: 7780)
Những người muôn năm cũ...

Những người  muôn năm cũ...      

Lê Tự Hỷ (Atlanta, Hoa Kỳ)


        Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần,  sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu :
                      Những người muôn năm cũ
                      Hồn ở đâu bây giờ ?
trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.

        Bài thơ Ông Đồ luôn gợi cho tôi những mỹ cảm tuyệt vời : không những là hoài niệm về một quá khứ đẹp trong đời sống văn hóa của cha ông mà còn nhắc nhỡ về công đức của tiền nhân đối với sự tồn tại và quá trình sống cho đến hiện nay của chính bản thân mình.
       Chiều nay, tôi bâng khuâng, ngậm ngùi nghĩ nhớ về những người đã từng có mặt trong những khoảnh khắc nào đó của đời mình : Hỡi “những người muôn năm cũ”, nếu không có sự hiện diện dù thoảng qua hay dài lâu của các vị trong dòng đời của tôi thì hôm nay tôi ra sao , tôi có là như  tôi của giây phút hiện tại nầy không ?

vu dinh lien

       Trong miên man hoài niệm về quá khứ ấy, tôi chợt nghĩ đến tập lưu trữ những giấy tờ của gia đình mình trong nhà con trai. Mở ra, tôi cầm lên tờ khai sinh của mình. Trong đời mình, chắc các bạn cũng vậy, đã bao lần tôi từng lấy một tờ giấy khai sinh ra đề đính kèm vào một tập hồ sơ  nào đó  như nộp đơn xin nhập học, nộp hồ sơ thi cử, hồ sơ xin việc làm,..., và có khi nộp đơn làm tủ tục kết hôn ! Nhưng tôi và có lẽ bạn cũng thế, chưa bao giờ đọc kỹ tờ khai sinh của mình ! bởi vì chúng ta chỉ nghĩ rất đơn giản và thực dụng : tờ khai sinh chỉ để chứng minh người đứng tên trong hồ sơ là chính hắn chứ không phải ai khác, và chỉ để cho người kiểm tra hồ sơ đọc sơ qua chứ  đương sự đã biết rõ tên, ngày sinh, nơi sinh của chính mình, tên cha, tên mẹ như trong khai sinh thì đã “yên chí lớn” rồi, đọc làm gì nữa cho mất công!

     Nhưng lần nầy, có lẽ do mong sớm trở về thăm nơi chôn nhau cắt rốn nên dư âm của hai câu thơ trên đây của nhà thơ Vũ Đình Liên đã khiến tôi đọc kỹ tờ giấy khai sinh của mình. Đấy là tờ Chứng Chỉ Thay Giấy  Khai Sinh được Tòa Hòa Giải Hội An cấp ngày... tháng... năm... mà người đứng ra xin chính là mẹ tôi! Tôi bồi hồi cảm động xiết bao khi hồi tưởng lại một trời dĩ vãng nơi quê nhà xa ngái. Lúc bấy giờ đất nước ta đang thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Hội An là tỉnh lị của tình Quảng Nam  nên mọi thủ tục giấy tờ của dân chúng vùng Pháp tạm chiếm phải làm tại Hôi An. Trong chiến tranh, giấy khai sinh của anh em chúng tôi đã bị thất lạc. Cha tôi đã mất, mẹ tôi đã lặn lội xuống Hội An để xin làm tờ Khai Sinh cho mấy anh em tôi. Thời buổi chiến tranh, đường đi không dễ, lại không quen việc thủ tục giấy tờ đối với một người đàn bà ở thôn quê, mà mẹ tôi đã tới Hôi An làm xong cái cơ sở pháp lý ban đầu để đưa tôi đi học.
        Ôi, me của con! : mẹ đã lo cho con trên vạn nẽo đường! Hồn mẹ không phải “ở đâu bây giờ” ! như câu thơ của Vũ Đình Liên, mà con tin chắc là hồn mẹ ở trong tờ khai sinh nầy, và vẫn theo con trên mọi nẽo đường dù nay con đã bao nhiêu tuổi, dù con đang ở đâu trên hành tinh nầy : trước bàn thờ ông bà, cha mẹ trong ngôi nhà mà cha mẹ xây dựng nơi con được chôn nhau cắt rốn, hay những lúc con đi học xa nhà, những lúc con đứng trên bục giảng tại Huế gần một phần tư thế kỷ, rồi ở Sài gòn-Tp Hồ Chí Minh, kể cả những lúc con rong chơi nơi xứ lạ quê người trong mùa đông với gió và tuyết hay như chiều nay trong mùa thu lá cây đang ngã qua màu vàng, đỏ, tía... thành những vùng rực rỡ, những ”Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” của thi hào Nguyễn Du  .

     Tôi đọc tiếp : người làm chứng thứ nhất là người bác thứ ba của tôi! Phải, mẹ tôi khi đi Hội An đã nhờ bác tôi đi làm chứng. Ôi những người bác của tôi.Tôi có 3 người bác. Tôi không còn nhớ một chút gì về người bác cao tuổi nhất vì bác đã mất khi tôi còn quá nhỏ. Người bác thứ hai tôi chỉ còn nhớ mang máng hình bóng mơ hồ về một người nông dân hay mặc bồ đồ nâu, và nhớ những kỉ niệm do mấy người chị tôi kể lại : bác thứ hai của tôi là một người chân chất, “thật thà như cục đất”, hẵn là như hầu hết các người nông dân quê mùa chất phác sinh vào cuối thế kỷ 19, đầu thé kỷ 20 ở nước ta. Bác thương mấy chị em chúng tôi lắm, mỗi khi đi làm về bác thường để dành cho chúng tôi một trái ổi, củ sắn, củ khoai, múi mít, một hai con dế, vài con châu chấu,...Ôi, những món quà chân quê từ tấm lòng thương mênh mông của bác là quí vô vàn với tuổi thơ tôi, và vẫn luôn lấp lánh trong kho tàng kỉ niệm về quê cha đất tổ, giúp tôi luôn nhớ đến cội nguồn. Thế rồi bác ra đi không bao giờ về nữa : nghe người ta nói giặc Pháp đã bắt bác và vài người cùng đi làm với bác “trói cắp ké” hai tay ra sau, bắn bỏ xác trôi sông vào khoảng năm 1949, 1950 gì đó! Ôi bác thân thương của con! Bác và biết bao người dân Việt đã là nạn nhân của lũ giặc Pháp tham tàn, cướp của, giết người. Thôi cũng đành, dòng sông Thu bồn đã đưa bác về hòa nhập với mênh mông!. Con cháu chúng tôi chỉ còn lập cho bác một “ngôi mộ gió”!. Qua bao lần biển dâu dời mộ, “mộ gió” của bác vẫn được dời theo. Lần cuối, cách đây hơn mười năm, chúng tôi đã dời “mộ gió “ của bác cùng với mộ ông bà, cha mẹ tôi trở lại làng quê, nơi mà bác đã từng một nắng hai sương dãi dầu năm tháng của cuộc đời người nông dân.

         Người bác thứ ba, người đứng tên làm chứng trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi, cũng là người rất hiền lành, chất phác. Vẫn còn hình ảnh,  lời nói của bác trong tôi. Cha tôi mất sớm, bác thương chị em chúng tôi,  những sáng sớm hay chiều tối, bác thường lặng lẽ dúi vào tay chị em chúng tôi một ít thịt, một ít bánh,.., và nháy mắt bảo về đi....dường như bác e có ai biết bác cho chúng tôi cái gì... Nhiều năm sau, vào một mùa Đông mưa phất phất, trời lạnh như cắt da, tôi về thăm quê nhà , đem tặng bác một cái áo ấm dài, bác mặc vào rất thích, đi đâu trong làng cũng khoe : thằng H.,  cháu tao nó cho tao cái ào “bành tô” nầy, ấm lắm! ấm lắm.! Nhưng bác đã già lắm, những gì chị em chúng tôi tặng bác thì không thấm vào đâu so với lòng thương mênh mông mà bác đã dành cho chúng tôi trong suốt cuộc chơn chất của bác. Tôi lại phải ra đi, từ biệt bác, lòng rưng rưng... Rồi bác cũng đã nằm xuống nơi quê nhà. Hồn bác cũng không “ở đâu bây giờ” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà ở trong tờ giấy khai sinh của tôi, và hẵn là có những lúc hồn bác ngồi trên mộ bác nhìn vằng trăng khuya treo lơ lững trên núi Phụng hoàng mà từ làng quê tôi nhìn xa xa thấy một màu xanh biếc; có những lúc bác ngồi trên bàn thờ cùng ông bà và cha mẹ tôi, và hẵn là hồn bác thường xuyên ghé thăm nhà thờ họ của chúng tôi vì bác là người đã giữ việc thắp hương nhà thờ trong cả cuộc đời bác.

       Tôi đọc tiếp người làm chứng thứ hai và thứ ba trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi. Họ là những người tôi không hề quen biết và chắc hai vị nầy cũng không hề biêt mặt mũi của tôi ra lam sao, chỉ nghe mẹ tôi kể với họ về tôi : con trai,  tên là...  , sinh ngày... , tháng..., bao nhiêu tuổi mà thôi. Nhưng có hề chi! Trong tờ Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh đã có in sẵn sâu : “Những nhân chứng nầy đã tuyên thệ và quả quyết biết chắc tên ..., quốc tịch Việt Nam, sinh ngày..., tháng..., năm..., tại làng..., xã... , quận..., tỉnh...., con trai ông.... và bà ...., vợ chánh thất”. Nghĩa là hai vị không những đã “thật sự” biết rất rõ về lai lịch của cậu nhóc con nầy là tôi đây, mà còn biết rõ mẹ tôi là vợ chánh của cha tôi, nghĩa là biết cha tôi đã có hay có quyền sẽ có thêm nhiều người vợ thứ nữa!

        Đây chính là hai người làm nghề đánh máy các loại giấy tờ để đưa vào ký tại Tòa Hòa Giải Hội An, tỉnh Quảng nam vào thời đó. Hai vị nầy là hai trong số 5, 7 vị đặt bàn máy đánh chữ, gõ lốc cốc cả ngày ngoài vỉa hè trước ngay Tòa Án tỉnh Quảng Nam. Chính họ đã hướng dẫn mọi người không biết thủ tục hành chánh như mẹ tôi làm được mọi giấy tờ cần thiết do Tòa án ký. Từ các khâu đánh máy, sắp xếp hồ sơ qua các nơi ký, đóng dấu, đóng lệ phí,..., họ làm ro ro ! Họ đã hữu ích vượt trên tầm mong đợi của biết bao người không biết thủ tục hành chánh như mẹ tôi. Họ đánh máy đúng họ tên tôi, còn ngày sinh của tôi thì sai. Nguyên, mẹ tôi khai ngày sinh của tôi theo âm lịch vì thuở đó dân quê của ta chỉ biết thạo ngày âm lịch, không rành ngày dương lịch, cho nên khi nghe số tuổi của tôi do mẹ tôi tính theo âm lịch thì họ tự động trừ đi một và từ đó qui ra năm sinh, và ngày âm lịch họ qui đổi ra ngày dương lịch, cho nên có khi đúng có khi sai. Tôi rơi vào trường hợp họ đổi sai! Nhưng không hề gì, miễn là cuối cùng có được giấy khai sinh hợp pháp của tôi cho mẹ tôi đem về là quá tốt rồi.

        Sự ghi sai ngày sinh trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi về sau lại là “một chút gia vị” cho đời tôi. Quả vậy, sau nầy vợ tôi nói tôi “gian” vì có tới 3 ngày sinh :  hai đúng gồm một ngày âm lịch, một ngày dương lịch mà không dùng, lại dùng cái sai đã được ghi trên khai sinh. “Gian” vì nhờ có 3 ngày sinh nhật khác nhau mà khi còn là “bồ” thì vợ tôi phải tặng quà sinh nhật cho tôi tới 3 lần một năm!. Nhưng khi nàng đã thành vợ tôi thì nàng thường hay làm lơ...vì nói tôi đã nhận quá nhiều quà sinh nhật của nàng rồi! Cũng không hề chi! Tôi cười.

       Hai vị đánh máy làm chứng khai sinh cho tôi hẵn là đã làm chứng cho rất nhiều người khác do chiến tranh thất lạc giấy tờ như tôi. Bây giờ sau hơn nửa thế kỷ, chiều hôm nay  tôi mới chỉ biết hai vị qua tên được ghi trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi. Các vị cũng chưa hề biết mặt mũi tôi, nhưng rõ ràng các vị đã cho có công rất lớn đối với tôi : tạo cho tôi một cơ sở pháp lí ban đầu để từ đó tôi mới có thể bước đi trên cuộc đời nầy và đã đi đến như ngày hôm nay.

     Chắc các vị đã nhập vào đoàn thể “ Những người muôn năm cũ” của Vũ Đình Liên như  mẹ tôi từ hơn hai mươi năm qua. Nhưng hồn của các vị cũng không “ ở đâu bây giờ” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà ở trên tờ khai sinh của tôi và của bao nhiêu người khác nữa mà các vị đã đứng tên làm chứng. Nhưng vì quá vô tình chúng ta không biết đấy mà thôi!.

     Chiều nay, ở nơi đây cách xa Hội An hàng vạn dặm tôi âm thầm thành kính tri ân hai vị.
     Tôi đọc tiếp một khai sinh của con tôi . Ba người làm chứng  khai sinh cho con tôi khi tôi ở Cư Xá Giáo Sư Đại Học số 2 đường Lê Lợi của Huế một thuở xưa . Cả 3 đều là người quen biết của gia đình tôi. Anh Đ. M. T. nghe đâu đã ra người thiên cổ tại một hải đảo xa xăm nào đó, còn anh V. H. L. và anh L. S. nay đã về hưu, hẵn là vẫn đang ở Huế.

      Chắc chắn các anh không bao giờ nhớ việc đã làm chứng khai sinh cho con tôi. Cũng như bạn và tôi có bao giờ nhớ mình đã làm chứng khai sinh cho ai hay làm thành viên trong đoàn nhà trai đi cưới vợ cho ai, cái chuyện nhỏ nhặt xảy ra mấy mưoi năm trước! 

      Nhưng chiều nay, tôi tự hứa vời lòng mình là chuyến trở về sắp tới, tôi sẽ về thăm lại Huế, và tìm đến thăm hai người bạn nầy. Tôi sẽ nhắc lại việc hai bạn đã làm chứng khai sinh cho con tôi. Hẵn là chúng tôi sẽ cùng uống với nhau “một ve” để ôn lại những ân tình một thuở nơi Huế xưa. Ôi Huế xưa của tôi! mà trong lòng tôi như mới hôm qua, nhưng bên ngoài đã mấy mươi năm rồi!.

     Và rồi sẽ đến một ngày tất cả chúng ta  sẽ “lên đường”, nhập vào đoàn “Những người muôn năm cũ”. Nhưng hồn các bạn không “ ở đâu bây giờ ?” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà một phần ở trong tờ giấy khai sinh của con tôi dù nó đang ở đâu đó, nơi phương trời Tây xa thẳm. Nhưng không ai biết . Cũng chẳng hề chi!

                           “Những người muôn năm cũ”
                            Ân tình một thuở xưa
                            Phả hồn trên tích cũ
                            Vô tình- ngươi biết chưa?


  Lê Tự Hỷ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2015(Xem: 5737)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3819)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4675)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15335)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3154)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11358)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18414)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6308)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3217)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
07/02/2015(Xem: 4711)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]