Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những người muôn năm cũ...

07/01/201806:17(Xem: 7797)
Những người muôn năm cũ...

Những người  muôn năm cũ...      

Lê Tự Hỷ (Atlanta, Hoa Kỳ)


        Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần,  sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu :
                      Những người muôn năm cũ
                      Hồn ở đâu bây giờ ?
trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.

        Bài thơ Ông Đồ luôn gợi cho tôi những mỹ cảm tuyệt vời : không những là hoài niệm về một quá khứ đẹp trong đời sống văn hóa của cha ông mà còn nhắc nhỡ về công đức của tiền nhân đối với sự tồn tại và quá trình sống cho đến hiện nay của chính bản thân mình.
       Chiều nay, tôi bâng khuâng, ngậm ngùi nghĩ nhớ về những người đã từng có mặt trong những khoảnh khắc nào đó của đời mình : Hỡi “những người muôn năm cũ”, nếu không có sự hiện diện dù thoảng qua hay dài lâu của các vị trong dòng đời của tôi thì hôm nay tôi ra sao , tôi có là như  tôi của giây phút hiện tại nầy không ?

vu dinh lien

       Trong miên man hoài niệm về quá khứ ấy, tôi chợt nghĩ đến tập lưu trữ những giấy tờ của gia đình mình trong nhà con trai. Mở ra, tôi cầm lên tờ khai sinh của mình. Trong đời mình, chắc các bạn cũng vậy, đã bao lần tôi từng lấy một tờ giấy khai sinh ra đề đính kèm vào một tập hồ sơ  nào đó  như nộp đơn xin nhập học, nộp hồ sơ thi cử, hồ sơ xin việc làm,..., và có khi nộp đơn làm tủ tục kết hôn ! Nhưng tôi và có lẽ bạn cũng thế, chưa bao giờ đọc kỹ tờ khai sinh của mình ! bởi vì chúng ta chỉ nghĩ rất đơn giản và thực dụng : tờ khai sinh chỉ để chứng minh người đứng tên trong hồ sơ là chính hắn chứ không phải ai khác, và chỉ để cho người kiểm tra hồ sơ đọc sơ qua chứ  đương sự đã biết rõ tên, ngày sinh, nơi sinh của chính mình, tên cha, tên mẹ như trong khai sinh thì đã “yên chí lớn” rồi, đọc làm gì nữa cho mất công!

     Nhưng lần nầy, có lẽ do mong sớm trở về thăm nơi chôn nhau cắt rốn nên dư âm của hai câu thơ trên đây của nhà thơ Vũ Đình Liên đã khiến tôi đọc kỹ tờ giấy khai sinh của mình. Đấy là tờ Chứng Chỉ Thay Giấy  Khai Sinh được Tòa Hòa Giải Hội An cấp ngày... tháng... năm... mà người đứng ra xin chính là mẹ tôi! Tôi bồi hồi cảm động xiết bao khi hồi tưởng lại một trời dĩ vãng nơi quê nhà xa ngái. Lúc bấy giờ đất nước ta đang thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Hội An là tỉnh lị của tình Quảng Nam  nên mọi thủ tục giấy tờ của dân chúng vùng Pháp tạm chiếm phải làm tại Hôi An. Trong chiến tranh, giấy khai sinh của anh em chúng tôi đã bị thất lạc. Cha tôi đã mất, mẹ tôi đã lặn lội xuống Hội An để xin làm tờ Khai Sinh cho mấy anh em tôi. Thời buổi chiến tranh, đường đi không dễ, lại không quen việc thủ tục giấy tờ đối với một người đàn bà ở thôn quê, mà mẹ tôi đã tới Hôi An làm xong cái cơ sở pháp lý ban đầu để đưa tôi đi học.
        Ôi, me của con! : mẹ đã lo cho con trên vạn nẽo đường! Hồn mẹ không phải “ở đâu bây giờ” ! như câu thơ của Vũ Đình Liên, mà con tin chắc là hồn mẹ ở trong tờ khai sinh nầy, và vẫn theo con trên mọi nẽo đường dù nay con đã bao nhiêu tuổi, dù con đang ở đâu trên hành tinh nầy : trước bàn thờ ông bà, cha mẹ trong ngôi nhà mà cha mẹ xây dựng nơi con được chôn nhau cắt rốn, hay những lúc con đi học xa nhà, những lúc con đứng trên bục giảng tại Huế gần một phần tư thế kỷ, rồi ở Sài gòn-Tp Hồ Chí Minh, kể cả những lúc con rong chơi nơi xứ lạ quê người trong mùa đông với gió và tuyết hay như chiều nay trong mùa thu lá cây đang ngã qua màu vàng, đỏ, tía... thành những vùng rực rỡ, những ”Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” của thi hào Nguyễn Du  .

     Tôi đọc tiếp : người làm chứng thứ nhất là người bác thứ ba của tôi! Phải, mẹ tôi khi đi Hội An đã nhờ bác tôi đi làm chứng. Ôi những người bác của tôi.Tôi có 3 người bác. Tôi không còn nhớ một chút gì về người bác cao tuổi nhất vì bác đã mất khi tôi còn quá nhỏ. Người bác thứ hai tôi chỉ còn nhớ mang máng hình bóng mơ hồ về một người nông dân hay mặc bồ đồ nâu, và nhớ những kỉ niệm do mấy người chị tôi kể lại : bác thứ hai của tôi là một người chân chất, “thật thà như cục đất”, hẵn là như hầu hết các người nông dân quê mùa chất phác sinh vào cuối thế kỷ 19, đầu thé kỷ 20 ở nước ta. Bác thương mấy chị em chúng tôi lắm, mỗi khi đi làm về bác thường để dành cho chúng tôi một trái ổi, củ sắn, củ khoai, múi mít, một hai con dế, vài con châu chấu,...Ôi, những món quà chân quê từ tấm lòng thương mênh mông của bác là quí vô vàn với tuổi thơ tôi, và vẫn luôn lấp lánh trong kho tàng kỉ niệm về quê cha đất tổ, giúp tôi luôn nhớ đến cội nguồn. Thế rồi bác ra đi không bao giờ về nữa : nghe người ta nói giặc Pháp đã bắt bác và vài người cùng đi làm với bác “trói cắp ké” hai tay ra sau, bắn bỏ xác trôi sông vào khoảng năm 1949, 1950 gì đó! Ôi bác thân thương của con! Bác và biết bao người dân Việt đã là nạn nhân của lũ giặc Pháp tham tàn, cướp của, giết người. Thôi cũng đành, dòng sông Thu bồn đã đưa bác về hòa nhập với mênh mông!. Con cháu chúng tôi chỉ còn lập cho bác một “ngôi mộ gió”!. Qua bao lần biển dâu dời mộ, “mộ gió” của bác vẫn được dời theo. Lần cuối, cách đây hơn mười năm, chúng tôi đã dời “mộ gió “ của bác cùng với mộ ông bà, cha mẹ tôi trở lại làng quê, nơi mà bác đã từng một nắng hai sương dãi dầu năm tháng của cuộc đời người nông dân.

         Người bác thứ ba, người đứng tên làm chứng trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi, cũng là người rất hiền lành, chất phác. Vẫn còn hình ảnh,  lời nói của bác trong tôi. Cha tôi mất sớm, bác thương chị em chúng tôi,  những sáng sớm hay chiều tối, bác thường lặng lẽ dúi vào tay chị em chúng tôi một ít thịt, một ít bánh,.., và nháy mắt bảo về đi....dường như bác e có ai biết bác cho chúng tôi cái gì... Nhiều năm sau, vào một mùa Đông mưa phất phất, trời lạnh như cắt da, tôi về thăm quê nhà , đem tặng bác một cái áo ấm dài, bác mặc vào rất thích, đi đâu trong làng cũng khoe : thằng H.,  cháu tao nó cho tao cái ào “bành tô” nầy, ấm lắm! ấm lắm.! Nhưng bác đã già lắm, những gì chị em chúng tôi tặng bác thì không thấm vào đâu so với lòng thương mênh mông mà bác đã dành cho chúng tôi trong suốt cuộc chơn chất của bác. Tôi lại phải ra đi, từ biệt bác, lòng rưng rưng... Rồi bác cũng đã nằm xuống nơi quê nhà. Hồn bác cũng không “ở đâu bây giờ” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà ở trong tờ giấy khai sinh của tôi, và hẵn là có những lúc hồn bác ngồi trên mộ bác nhìn vằng trăng khuya treo lơ lững trên núi Phụng hoàng mà từ làng quê tôi nhìn xa xa thấy một màu xanh biếc; có những lúc bác ngồi trên bàn thờ cùng ông bà và cha mẹ tôi, và hẵn là hồn bác thường xuyên ghé thăm nhà thờ họ của chúng tôi vì bác là người đã giữ việc thắp hương nhà thờ trong cả cuộc đời bác.

       Tôi đọc tiếp người làm chứng thứ hai và thứ ba trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi. Họ là những người tôi không hề quen biết và chắc hai vị nầy cũng không hề biêt mặt mũi của tôi ra lam sao, chỉ nghe mẹ tôi kể với họ về tôi : con trai,  tên là...  , sinh ngày... , tháng..., bao nhiêu tuổi mà thôi. Nhưng có hề chi! Trong tờ Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh đã có in sẵn sâu : “Những nhân chứng nầy đã tuyên thệ và quả quyết biết chắc tên ..., quốc tịch Việt Nam, sinh ngày..., tháng..., năm..., tại làng..., xã... , quận..., tỉnh...., con trai ông.... và bà ...., vợ chánh thất”. Nghĩa là hai vị không những đã “thật sự” biết rất rõ về lai lịch của cậu nhóc con nầy là tôi đây, mà còn biết rõ mẹ tôi là vợ chánh của cha tôi, nghĩa là biết cha tôi đã có hay có quyền sẽ có thêm nhiều người vợ thứ nữa!

        Đây chính là hai người làm nghề đánh máy các loại giấy tờ để đưa vào ký tại Tòa Hòa Giải Hội An, tỉnh Quảng nam vào thời đó. Hai vị nầy là hai trong số 5, 7 vị đặt bàn máy đánh chữ, gõ lốc cốc cả ngày ngoài vỉa hè trước ngay Tòa Án tỉnh Quảng Nam. Chính họ đã hướng dẫn mọi người không biết thủ tục hành chánh như mẹ tôi làm được mọi giấy tờ cần thiết do Tòa án ký. Từ các khâu đánh máy, sắp xếp hồ sơ qua các nơi ký, đóng dấu, đóng lệ phí,..., họ làm ro ro ! Họ đã hữu ích vượt trên tầm mong đợi của biết bao người không biết thủ tục hành chánh như mẹ tôi. Họ đánh máy đúng họ tên tôi, còn ngày sinh của tôi thì sai. Nguyên, mẹ tôi khai ngày sinh của tôi theo âm lịch vì thuở đó dân quê của ta chỉ biết thạo ngày âm lịch, không rành ngày dương lịch, cho nên khi nghe số tuổi của tôi do mẹ tôi tính theo âm lịch thì họ tự động trừ đi một và từ đó qui ra năm sinh, và ngày âm lịch họ qui đổi ra ngày dương lịch, cho nên có khi đúng có khi sai. Tôi rơi vào trường hợp họ đổi sai! Nhưng không hề gì, miễn là cuối cùng có được giấy khai sinh hợp pháp của tôi cho mẹ tôi đem về là quá tốt rồi.

        Sự ghi sai ngày sinh trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi về sau lại là “một chút gia vị” cho đời tôi. Quả vậy, sau nầy vợ tôi nói tôi “gian” vì có tới 3 ngày sinh :  hai đúng gồm một ngày âm lịch, một ngày dương lịch mà không dùng, lại dùng cái sai đã được ghi trên khai sinh. “Gian” vì nhờ có 3 ngày sinh nhật khác nhau mà khi còn là “bồ” thì vợ tôi phải tặng quà sinh nhật cho tôi tới 3 lần một năm!. Nhưng khi nàng đã thành vợ tôi thì nàng thường hay làm lơ...vì nói tôi đã nhận quá nhiều quà sinh nhật của nàng rồi! Cũng không hề chi! Tôi cười.

       Hai vị đánh máy làm chứng khai sinh cho tôi hẵn là đã làm chứng cho rất nhiều người khác do chiến tranh thất lạc giấy tờ như tôi. Bây giờ sau hơn nửa thế kỷ, chiều hôm nay  tôi mới chỉ biết hai vị qua tên được ghi trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi. Các vị cũng chưa hề biết mặt mũi tôi, nhưng rõ ràng các vị đã cho có công rất lớn đối với tôi : tạo cho tôi một cơ sở pháp lí ban đầu để từ đó tôi mới có thể bước đi trên cuộc đời nầy và đã đi đến như ngày hôm nay.

     Chắc các vị đã nhập vào đoàn thể “ Những người muôn năm cũ” của Vũ Đình Liên như  mẹ tôi từ hơn hai mươi năm qua. Nhưng hồn của các vị cũng không “ ở đâu bây giờ” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà ở trên tờ khai sinh của tôi và của bao nhiêu người khác nữa mà các vị đã đứng tên làm chứng. Nhưng vì quá vô tình chúng ta không biết đấy mà thôi!.

     Chiều nay, ở nơi đây cách xa Hội An hàng vạn dặm tôi âm thầm thành kính tri ân hai vị.
     Tôi đọc tiếp một khai sinh của con tôi . Ba người làm chứng  khai sinh cho con tôi khi tôi ở Cư Xá Giáo Sư Đại Học số 2 đường Lê Lợi của Huế một thuở xưa . Cả 3 đều là người quen biết của gia đình tôi. Anh Đ. M. T. nghe đâu đã ra người thiên cổ tại một hải đảo xa xăm nào đó, còn anh V. H. L. và anh L. S. nay đã về hưu, hẵn là vẫn đang ở Huế.

      Chắc chắn các anh không bao giờ nhớ việc đã làm chứng khai sinh cho con tôi. Cũng như bạn và tôi có bao giờ nhớ mình đã làm chứng khai sinh cho ai hay làm thành viên trong đoàn nhà trai đi cưới vợ cho ai, cái chuyện nhỏ nhặt xảy ra mấy mưoi năm trước! 

      Nhưng chiều nay, tôi tự hứa vời lòng mình là chuyến trở về sắp tới, tôi sẽ về thăm lại Huế, và tìm đến thăm hai người bạn nầy. Tôi sẽ nhắc lại việc hai bạn đã làm chứng khai sinh cho con tôi. Hẵn là chúng tôi sẽ cùng uống với nhau “một ve” để ôn lại những ân tình một thuở nơi Huế xưa. Ôi Huế xưa của tôi! mà trong lòng tôi như mới hôm qua, nhưng bên ngoài đã mấy mươi năm rồi!.

     Và rồi sẽ đến một ngày tất cả chúng ta  sẽ “lên đường”, nhập vào đoàn “Những người muôn năm cũ”. Nhưng hồn các bạn không “ ở đâu bây giờ ?” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà một phần ở trong tờ giấy khai sinh của con tôi dù nó đang ở đâu đó, nơi phương trời Tây xa thẳm. Nhưng không ai biết . Cũng chẳng hề chi!

                           “Những người muôn năm cũ”
                            Ân tình một thuở xưa
                            Phả hồn trên tích cũ
                            Vô tình- ngươi biết chưa?


  Lê Tự Hỷ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2019(Xem: 5025)
Quê quán tôi ở tận làng Nguyệt Biều, ngoại ô thành phố Huế, nơi nổi tiếng có những vườn thanh trà xanh um, trái ngọt. Hơn 50 năm trên đất Việt, tôi đã sống hơn 30 năm trên đất Huế, uống nước sông Hương hai mùa mưa nắng, ăn cơm gạo de An Cựu. Mùa hè tắm biển Thuận An, mùa xuân ngắm hoa đào trên chùa Từ Hiếu, mùa đông vẫn dầm mưa qua đò Thừa Phủ; chưa kể tiếng thông reo trên đồi Thiên An, tiếng ve sầu rả rích trên các tàng cây dọc con đường vào Thành Nội. Còn nữa, màu hồng, màu trắng của hoa sen hồ Tịnh Tâm, màu đỏ rực của phượng vĩ mùa hè. Tôi là dân Huế chính cống, Huế chay, “mô - tê - răng - rứa “ tôi nói không sai một chữ. Cũng có thể máu huyết tôi thấm đậm hương vị quýt Hương Cần, thanh trà, nhãn lồng Nguyệt Biều, mít Kim Long, dâu Truồi ngọt lịm...
21/10/2019(Xem: 3813)
Hans Christian Andersen là một nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch, hay nói đúng hơn là của tuổi thơ. Ông sinh ngày 2 tháng 4 năm 1805 và mất ngày 4 tháng 8 năm 1875, thọ 70 tuổi. Đa phần tên Ông được viết tắt là H.C.Andersen, có lẽ để cho người ta dễ đọc và dễ nhớ, nhất là cho trẻ em. Ngày Ông sinh ra tính cho đến nay ở đầu thế kỷ thứ 21 nầy cũng đã trên 200 năm rồi. Ngày ấy Odense vẫn là một ốc đảo của Đan Mạch, nằm giữa những đảo lớn, có thủ đô Copenhagen và vùng Kolding. Từ Kolding hay Copenhagen muốn đến Odense đều phải đi ngang hai chiếc cầu dài nhất nhì tại Âu Châu và những chiếc cầu nầy cũng chỉ mới được xây dựng vào thế kỷ thứ 20, chứ trước đó thì chắc rằng người ta phải đi ngựa và đi thuyền mới đến được những nơi nào người ta muốn đến của hai mảnh đất liền nằm hai bên ốc đảo Odense nầy.
05/10/2019(Xem: 5589)
Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng: -Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng. Hòa thượng đáp: - Phật là cơm.
29/09/2019(Xem: 27893)
Video: Hành Trình Khám Phá về Sự Thật Xá Lợi của Đức Phật (Rất hay, rất cảm động khi xem, quý vị nên tranh thủ vào xem liền, chân thành cảm ơn nhà văn, nhà khảo cô người Anh Charles Allen đã thực hiện cuốn phim tài liệu công phu và độc nhất vô nhị để tôn vinh và tìm ra sự thật về xá lợi của Đức Thế Tôn sau 26 thế kỷ, from Thích Nguyên Tạng, chủ biên trang nhà Quảng Đức)
26/09/2019(Xem: 6084)
Vừa tang tảng sớm, sương mai còn đọng trên đầu những ngọn cỏ xanh non, một người phụ nữ trạc tuổi bốn mươi, khoác áo bà ba nâu giản dị, đã đến trước ngõ cây tùng của am lá , tên dân dã thường gọi am Không Cửa … Bà không cần gọi am chủ mà đã tự động hé cánh cửa tùng hờ hửng mở, thư thả đi những bước chân nhẹ nhàng vào đến tận cửa am. Bà cất tiếng gọi :
11/09/2019(Xem: 4496)
Một câu chuyện có thật. Tại một thành phố ở Ấn Độ, vị thương gia mất cả ngày trời thương thảo với đối tác. Mệt mỏi, ông vào một nhà hàng sang trọng, tự thưởng cho mình bữa tối thịnh soạn.
03/09/2019(Xem: 3453)
Một đêm khi Shichiri Kojun đang tụng kinh thì một tên trộm với một thanh kiếm sắc nhọn bước vào, đòi đưa tiền nếu không ông sẽ mất mạng.
21/08/2019(Xem: 8508)
Một đoàn đông toàn thương gia Dự trù vượt biển đi xa buôn hàng Tìm đường sinh sống lang thang Lộ trình đoàn phải băng ngang cánh đồng
14/08/2019(Xem: 3773)
Sư cô Trăng Hiền Tâm, xuất gia trong gia đình cây Dẻ Gai ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại Làng Mai – Pháp. Là con một, lớn lên trong một gia đình khá yên ấm tại Hàn Quốc và đang trên đường xây dựng sự nghiệp vững vàng, sư cô đã gặp được con đường tâm linh và phát tâm xuất gia mạnh mẽ. Hiện nay, sư cô đang tu tập ở xóm Mới và là niềm vui cho tất cả mọi người. Dưới đây là những chia sẻ của sư cô về hành trình tâm linh của mình, được Ban biên tập chuyển ngữ từ tiếng Anh
13/08/2019(Xem: 6317)
Một người từ 2500 năm trước vẫn còn sống chốn nhân gian, bạn có tin không? Nhưng càng kỳ lạ là, cách đây không lâu, một tiến sỹ người Anh tên là Beckson đã gặp tôn giả Ca Diếp trên núi Kê Túc, hơn nữa ông còn vì thế mà đã quy y Phật giáo. Đó là vào buổi sáng ngày đầu tiên hội nghị hàng năm của Hội nghiên cứu học thuật London vào đầu thế kỷ 20, rất nhiều tiến sỹ nổi tiếng nước Anh nghiên cứu khoa học, triết học, pháp học và thần học đã tấp nập đến trung tâm nghiên cứu, sẵn sàng thuyết trình. Người khiến mọi người chú ý là một vị hòa thượng phương Tây, thân hình cao lớn, mặc bộ tăng y màu vàng, ngoài khoác áo cà sa, tay cầm chiếc bát đen, chân trần, cử chỉ trang trọng, bước về phía tòa nhà tráng lệ của Hội nghiên cứu học thuật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]