Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những người muôn năm cũ...

07/01/201806:17(Xem: 7801)
Những người muôn năm cũ...

Những người  muôn năm cũ...      

Lê Tự Hỷ (Atlanta, Hoa Kỳ)


        Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần,  sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu :
                      Những người muôn năm cũ
                      Hồn ở đâu bây giờ ?
trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.

        Bài thơ Ông Đồ luôn gợi cho tôi những mỹ cảm tuyệt vời : không những là hoài niệm về một quá khứ đẹp trong đời sống văn hóa của cha ông mà còn nhắc nhỡ về công đức của tiền nhân đối với sự tồn tại và quá trình sống cho đến hiện nay của chính bản thân mình.
       Chiều nay, tôi bâng khuâng, ngậm ngùi nghĩ nhớ về những người đã từng có mặt trong những khoảnh khắc nào đó của đời mình : Hỡi “những người muôn năm cũ”, nếu không có sự hiện diện dù thoảng qua hay dài lâu của các vị trong dòng đời của tôi thì hôm nay tôi ra sao , tôi có là như  tôi của giây phút hiện tại nầy không ?

vu dinh lien

       Trong miên man hoài niệm về quá khứ ấy, tôi chợt nghĩ đến tập lưu trữ những giấy tờ của gia đình mình trong nhà con trai. Mở ra, tôi cầm lên tờ khai sinh của mình. Trong đời mình, chắc các bạn cũng vậy, đã bao lần tôi từng lấy một tờ giấy khai sinh ra đề đính kèm vào một tập hồ sơ  nào đó  như nộp đơn xin nhập học, nộp hồ sơ thi cử, hồ sơ xin việc làm,..., và có khi nộp đơn làm tủ tục kết hôn ! Nhưng tôi và có lẽ bạn cũng thế, chưa bao giờ đọc kỹ tờ khai sinh của mình ! bởi vì chúng ta chỉ nghĩ rất đơn giản và thực dụng : tờ khai sinh chỉ để chứng minh người đứng tên trong hồ sơ là chính hắn chứ không phải ai khác, và chỉ để cho người kiểm tra hồ sơ đọc sơ qua chứ  đương sự đã biết rõ tên, ngày sinh, nơi sinh của chính mình, tên cha, tên mẹ như trong khai sinh thì đã “yên chí lớn” rồi, đọc làm gì nữa cho mất công!

     Nhưng lần nầy, có lẽ do mong sớm trở về thăm nơi chôn nhau cắt rốn nên dư âm của hai câu thơ trên đây của nhà thơ Vũ Đình Liên đã khiến tôi đọc kỹ tờ giấy khai sinh của mình. Đấy là tờ Chứng Chỉ Thay Giấy  Khai Sinh được Tòa Hòa Giải Hội An cấp ngày... tháng... năm... mà người đứng ra xin chính là mẹ tôi! Tôi bồi hồi cảm động xiết bao khi hồi tưởng lại một trời dĩ vãng nơi quê nhà xa ngái. Lúc bấy giờ đất nước ta đang thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Hội An là tỉnh lị của tình Quảng Nam  nên mọi thủ tục giấy tờ của dân chúng vùng Pháp tạm chiếm phải làm tại Hôi An. Trong chiến tranh, giấy khai sinh của anh em chúng tôi đã bị thất lạc. Cha tôi đã mất, mẹ tôi đã lặn lội xuống Hội An để xin làm tờ Khai Sinh cho mấy anh em tôi. Thời buổi chiến tranh, đường đi không dễ, lại không quen việc thủ tục giấy tờ đối với một người đàn bà ở thôn quê, mà mẹ tôi đã tới Hôi An làm xong cái cơ sở pháp lý ban đầu để đưa tôi đi học.
        Ôi, me của con! : mẹ đã lo cho con trên vạn nẽo đường! Hồn mẹ không phải “ở đâu bây giờ” ! như câu thơ của Vũ Đình Liên, mà con tin chắc là hồn mẹ ở trong tờ khai sinh nầy, và vẫn theo con trên mọi nẽo đường dù nay con đã bao nhiêu tuổi, dù con đang ở đâu trên hành tinh nầy : trước bàn thờ ông bà, cha mẹ trong ngôi nhà mà cha mẹ xây dựng nơi con được chôn nhau cắt rốn, hay những lúc con đi học xa nhà, những lúc con đứng trên bục giảng tại Huế gần một phần tư thế kỷ, rồi ở Sài gòn-Tp Hồ Chí Minh, kể cả những lúc con rong chơi nơi xứ lạ quê người trong mùa đông với gió và tuyết hay như chiều nay trong mùa thu lá cây đang ngã qua màu vàng, đỏ, tía... thành những vùng rực rỡ, những ”Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” của thi hào Nguyễn Du  .

     Tôi đọc tiếp : người làm chứng thứ nhất là người bác thứ ba của tôi! Phải, mẹ tôi khi đi Hội An đã nhờ bác tôi đi làm chứng. Ôi những người bác của tôi.Tôi có 3 người bác. Tôi không còn nhớ một chút gì về người bác cao tuổi nhất vì bác đã mất khi tôi còn quá nhỏ. Người bác thứ hai tôi chỉ còn nhớ mang máng hình bóng mơ hồ về một người nông dân hay mặc bồ đồ nâu, và nhớ những kỉ niệm do mấy người chị tôi kể lại : bác thứ hai của tôi là một người chân chất, “thật thà như cục đất”, hẵn là như hầu hết các người nông dân quê mùa chất phác sinh vào cuối thế kỷ 19, đầu thé kỷ 20 ở nước ta. Bác thương mấy chị em chúng tôi lắm, mỗi khi đi làm về bác thường để dành cho chúng tôi một trái ổi, củ sắn, củ khoai, múi mít, một hai con dế, vài con châu chấu,...Ôi, những món quà chân quê từ tấm lòng thương mênh mông của bác là quí vô vàn với tuổi thơ tôi, và vẫn luôn lấp lánh trong kho tàng kỉ niệm về quê cha đất tổ, giúp tôi luôn nhớ đến cội nguồn. Thế rồi bác ra đi không bao giờ về nữa : nghe người ta nói giặc Pháp đã bắt bác và vài người cùng đi làm với bác “trói cắp ké” hai tay ra sau, bắn bỏ xác trôi sông vào khoảng năm 1949, 1950 gì đó! Ôi bác thân thương của con! Bác và biết bao người dân Việt đã là nạn nhân của lũ giặc Pháp tham tàn, cướp của, giết người. Thôi cũng đành, dòng sông Thu bồn đã đưa bác về hòa nhập với mênh mông!. Con cháu chúng tôi chỉ còn lập cho bác một “ngôi mộ gió”!. Qua bao lần biển dâu dời mộ, “mộ gió” của bác vẫn được dời theo. Lần cuối, cách đây hơn mười năm, chúng tôi đã dời “mộ gió “ của bác cùng với mộ ông bà, cha mẹ tôi trở lại làng quê, nơi mà bác đã từng một nắng hai sương dãi dầu năm tháng của cuộc đời người nông dân.

         Người bác thứ ba, người đứng tên làm chứng trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi, cũng là người rất hiền lành, chất phác. Vẫn còn hình ảnh,  lời nói của bác trong tôi. Cha tôi mất sớm, bác thương chị em chúng tôi,  những sáng sớm hay chiều tối, bác thường lặng lẽ dúi vào tay chị em chúng tôi một ít thịt, một ít bánh,.., và nháy mắt bảo về đi....dường như bác e có ai biết bác cho chúng tôi cái gì... Nhiều năm sau, vào một mùa Đông mưa phất phất, trời lạnh như cắt da, tôi về thăm quê nhà , đem tặng bác một cái áo ấm dài, bác mặc vào rất thích, đi đâu trong làng cũng khoe : thằng H.,  cháu tao nó cho tao cái ào “bành tô” nầy, ấm lắm! ấm lắm.! Nhưng bác đã già lắm, những gì chị em chúng tôi tặng bác thì không thấm vào đâu so với lòng thương mênh mông mà bác đã dành cho chúng tôi trong suốt cuộc chơn chất của bác. Tôi lại phải ra đi, từ biệt bác, lòng rưng rưng... Rồi bác cũng đã nằm xuống nơi quê nhà. Hồn bác cũng không “ở đâu bây giờ” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà ở trong tờ giấy khai sinh của tôi, và hẵn là có những lúc hồn bác ngồi trên mộ bác nhìn vằng trăng khuya treo lơ lững trên núi Phụng hoàng mà từ làng quê tôi nhìn xa xa thấy một màu xanh biếc; có những lúc bác ngồi trên bàn thờ cùng ông bà và cha mẹ tôi, và hẵn là hồn bác thường xuyên ghé thăm nhà thờ họ của chúng tôi vì bác là người đã giữ việc thắp hương nhà thờ trong cả cuộc đời bác.

       Tôi đọc tiếp người làm chứng thứ hai và thứ ba trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi. Họ là những người tôi không hề quen biết và chắc hai vị nầy cũng không hề biêt mặt mũi của tôi ra lam sao, chỉ nghe mẹ tôi kể với họ về tôi : con trai,  tên là...  , sinh ngày... , tháng..., bao nhiêu tuổi mà thôi. Nhưng có hề chi! Trong tờ Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh đã có in sẵn sâu : “Những nhân chứng nầy đã tuyên thệ và quả quyết biết chắc tên ..., quốc tịch Việt Nam, sinh ngày..., tháng..., năm..., tại làng..., xã... , quận..., tỉnh...., con trai ông.... và bà ...., vợ chánh thất”. Nghĩa là hai vị không những đã “thật sự” biết rất rõ về lai lịch của cậu nhóc con nầy là tôi đây, mà còn biết rõ mẹ tôi là vợ chánh của cha tôi, nghĩa là biết cha tôi đã có hay có quyền sẽ có thêm nhiều người vợ thứ nữa!

        Đây chính là hai người làm nghề đánh máy các loại giấy tờ để đưa vào ký tại Tòa Hòa Giải Hội An, tỉnh Quảng nam vào thời đó. Hai vị nầy là hai trong số 5, 7 vị đặt bàn máy đánh chữ, gõ lốc cốc cả ngày ngoài vỉa hè trước ngay Tòa Án tỉnh Quảng Nam. Chính họ đã hướng dẫn mọi người không biết thủ tục hành chánh như mẹ tôi làm được mọi giấy tờ cần thiết do Tòa án ký. Từ các khâu đánh máy, sắp xếp hồ sơ qua các nơi ký, đóng dấu, đóng lệ phí,..., họ làm ro ro ! Họ đã hữu ích vượt trên tầm mong đợi của biết bao người không biết thủ tục hành chánh như mẹ tôi. Họ đánh máy đúng họ tên tôi, còn ngày sinh của tôi thì sai. Nguyên, mẹ tôi khai ngày sinh của tôi theo âm lịch vì thuở đó dân quê của ta chỉ biết thạo ngày âm lịch, không rành ngày dương lịch, cho nên khi nghe số tuổi của tôi do mẹ tôi tính theo âm lịch thì họ tự động trừ đi một và từ đó qui ra năm sinh, và ngày âm lịch họ qui đổi ra ngày dương lịch, cho nên có khi đúng có khi sai. Tôi rơi vào trường hợp họ đổi sai! Nhưng không hề gì, miễn là cuối cùng có được giấy khai sinh hợp pháp của tôi cho mẹ tôi đem về là quá tốt rồi.

        Sự ghi sai ngày sinh trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi về sau lại là “một chút gia vị” cho đời tôi. Quả vậy, sau nầy vợ tôi nói tôi “gian” vì có tới 3 ngày sinh :  hai đúng gồm một ngày âm lịch, một ngày dương lịch mà không dùng, lại dùng cái sai đã được ghi trên khai sinh. “Gian” vì nhờ có 3 ngày sinh nhật khác nhau mà khi còn là “bồ” thì vợ tôi phải tặng quà sinh nhật cho tôi tới 3 lần một năm!. Nhưng khi nàng đã thành vợ tôi thì nàng thường hay làm lơ...vì nói tôi đã nhận quá nhiều quà sinh nhật của nàng rồi! Cũng không hề chi! Tôi cười.

       Hai vị đánh máy làm chứng khai sinh cho tôi hẵn là đã làm chứng cho rất nhiều người khác do chiến tranh thất lạc giấy tờ như tôi. Bây giờ sau hơn nửa thế kỷ, chiều hôm nay  tôi mới chỉ biết hai vị qua tên được ghi trong Chứng Chỉ Thay Giấy Khai Sinh của tôi. Các vị cũng chưa hề biết mặt mũi tôi, nhưng rõ ràng các vị đã cho có công rất lớn đối với tôi : tạo cho tôi một cơ sở pháp lí ban đầu để từ đó tôi mới có thể bước đi trên cuộc đời nầy và đã đi đến như ngày hôm nay.

     Chắc các vị đã nhập vào đoàn thể “ Những người muôn năm cũ” của Vũ Đình Liên như  mẹ tôi từ hơn hai mươi năm qua. Nhưng hồn của các vị cũng không “ ở đâu bây giờ” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà ở trên tờ khai sinh của tôi và của bao nhiêu người khác nữa mà các vị đã đứng tên làm chứng. Nhưng vì quá vô tình chúng ta không biết đấy mà thôi!.

     Chiều nay, ở nơi đây cách xa Hội An hàng vạn dặm tôi âm thầm thành kính tri ân hai vị.
     Tôi đọc tiếp một khai sinh của con tôi . Ba người làm chứng  khai sinh cho con tôi khi tôi ở Cư Xá Giáo Sư Đại Học số 2 đường Lê Lợi của Huế một thuở xưa . Cả 3 đều là người quen biết của gia đình tôi. Anh Đ. M. T. nghe đâu đã ra người thiên cổ tại một hải đảo xa xăm nào đó, còn anh V. H. L. và anh L. S. nay đã về hưu, hẵn là vẫn đang ở Huế.

      Chắc chắn các anh không bao giờ nhớ việc đã làm chứng khai sinh cho con tôi. Cũng như bạn và tôi có bao giờ nhớ mình đã làm chứng khai sinh cho ai hay làm thành viên trong đoàn nhà trai đi cưới vợ cho ai, cái chuyện nhỏ nhặt xảy ra mấy mưoi năm trước! 

      Nhưng chiều nay, tôi tự hứa vời lòng mình là chuyến trở về sắp tới, tôi sẽ về thăm lại Huế, và tìm đến thăm hai người bạn nầy. Tôi sẽ nhắc lại việc hai bạn đã làm chứng khai sinh cho con tôi. Hẵn là chúng tôi sẽ cùng uống với nhau “một ve” để ôn lại những ân tình một thuở nơi Huế xưa. Ôi Huế xưa của tôi! mà trong lòng tôi như mới hôm qua, nhưng bên ngoài đã mấy mươi năm rồi!.

     Và rồi sẽ đến một ngày tất cả chúng ta  sẽ “lên đường”, nhập vào đoàn “Những người muôn năm cũ”. Nhưng hồn các bạn không “ ở đâu bây giờ ?” như lời thơ của Vũ Đình Liên, mà một phần ở trong tờ giấy khai sinh của con tôi dù nó đang ở đâu đó, nơi phương trời Tây xa thẳm. Nhưng không ai biết . Cũng chẳng hề chi!

                           “Những người muôn năm cũ”
                            Ân tình một thuở xưa
                            Phả hồn trên tích cũ
                            Vô tình- ngươi biết chưa?


  Lê Tự Hỷ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2021(Xem: 5344)
Buổi trưa hè miền Trung, cái nắng nóng làm như ông Trời gôm hết lửa đổ xuống trần gian thiêu rụi vạn vật, không ai chịu nổi. Tất cả đều rúc hết vào nhà, đóng cửa trốn ông Trời, tranh thủ thời gian đó nghỉ ngơi. Hầu hết tìm giấc ngủ trưa để quên đi thời tiết khắc nghiệt. Chỉ riêng bốn đứa...tứ tặc gồm Nam, Thanh Du, Hiền và Bích Nga lang thang trên đường phố. Chúng la cà từ Ngã Tư Chính trung tâm phố đi lần về trường trung học Hùng Vương chỉ cách đó không xa, khoảng 15 phút đi bộ, nơi bốn đứa cùng học chung lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) dù Thanh Du và Hiền 12 tuổi đều hơn Nam và Bích Nga một tuổi.
24/07/2021(Xem: 3583)
Vừa trút xong gánh nặng với 94 đứa học trò trong học kỳ mùa Xuân, tôi viết đôi dòng tản mạn ngày 30/4 của 46 năm trước khi buổi sáng ngày này tướng DVM tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài-Gòn. Má tôi là Liên Gia Trưởng nên nhà được phát cây Carbine M2 và sau đó có thêm cây Shotgun. Thỉnh thoảng tôi vẫn đem hai cây súng ra lau chùi bôi nhớt cho không bị rỉ sét. Mỗi lần như vậy Má tôi vẫn nhắc chừng: - “Cẩn thận, súng đạn vô tình nghe con!”. Tôi trả lời cho Má tôi yên tâm: - “Má đừng lo, con làm quen rồi!”. Năm 72, cao điểm của chiến tranh Việt Nam qua mùa Hè Đỏ Lửa ở Cổ thành Quảng-Trị. Không biết các trường trung học ở Đô thành Sài Gòn thế nào, nhưng ở trường Trung-Thu của chúng tôi, từ lớp 10 trở lên đều được huấn luyện quân sự học đường. Có đi tập bắn ở xạ trường Phú Lâm, và tôi có trong toán biểu diễn bịt mắt tháo ráp vũ khí trong vòng 1 phút. Buổi lễ có lập khán đài rất trịnh trọng và nhiều quan chức lớn bên Bộ Tư Lệnh CSQG đến dự. Nếu tôi không lầm, có ông Chuẩ
23/07/2021(Xem: 6442)
Mục đích ra đời của đức Phật là để cứu khổ độ sanh. Nghĩa là để hóa độ mọi loài bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh hầu đưa họ từ mê tới ngộ, từ khổ đến vui. Gần 2000 năm, từ ngày đạo Phật truyền vào Việt Nam, chưa bao giờ có một số đông đảo Phật Giáo đồ phải xa lìa quê hương yêu dấu, bỏ nước ra đi như sau ngày 30-41975! Từ đó đến nay đã 24 năm dài, do đó, những trẻ em cùng tị nạn một lượt với cha mẹ hoặc sinh trưởng trên đất khách quê người đa số đều không thể nói, đọc, và viết tiếng Việt Nam một cách đúng đắn, trôi chảy. “Mười năm trồng cây, 100 năm trồng người,” tuội trẻ là tương lai của đất nước, rường cột của quốc gia, chúng ta không thể nào không lo xa, không vun bồi. Vì thế, chúng tôi không quản tài hèn trí cạn mạnh dạn viết và ấn hành bộ Phật Giáo của Nhi Đồng để bồi bổ vào chỗ thiếu thốn do thời thế tạo nên trên đây.
20/07/2021(Xem: 27130)
Chủ đề: 2 vị Thiền Sư: 1/Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979) (Đời thứ 11, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) 2/Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087) (Đời thứ 11, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 258 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Ba, 20/07/2021 (11/06/Tân Sửu) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/ https://www.facebook.com/quangducwebsite Website: https://quangduc.com Tel: 03. 9357 3544 Email: [email protected]
22/06/2021(Xem: 3673)
Sáng nay tham dự buổi livestream tiếng chuông khuya do TT Thích Nguyên Tạng thỉnh chuông . Nhìn dung mạo trang nghiêm của Thầy con chợt liên tưởng đến Ngài ...Phương Trượng chùa Viên Giác HT Thích Như Điển , một danh tăng đức độ cao vời được Thầy Nguyên Tạng rất kính quý và đã cùng Thầy đồng hành trong những chuyến hoằng pháp Âu, Mỹ Châu nhiều năm qua , gần đây nhất vào tháng 6/ 2019 khoá tu học tại Bắc Âu mà con được hân hạnh tường thuật lại qua hình ảnh Thầy gửi về và được may mắn kính mừng sinh nhật Ngài vào 28/6 năm ấy . Năm tháng trôi qua theo vòng quay trái đất liên tục và đây có lẽ là lần thứ ba con được vinh hạnh viết lên những lời tán dương này đến Ngài để cúng dường và kính mừng sinh nhật lần thứ 72 dù chưa được hân hạnh diện kiến . Tuy đã được Ngài hứa rằng ...” sẽ có cơ hội “ khi nào lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Tu Viện Quảng Đức vào tháng 10/2020 được tổ chức . Nhưng than ôi ....đại dịch Covid 19 kinh hoàng đã xuất hiện và thời gian để tổ chức không
12/06/2021(Xem: 11502)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
10/06/2021(Xem: 14523)
NGỎ Từ khi vào chùa với tuổi để chỏm, Bổn sư thế độ đã trao cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy phải học thuộc lòng, rồi theo đại chúng đi thực tập tụng kinh vào mỗi buổi chiều. Học và tụng thuộc lòng ngâm nga vào mỗi buổi chiều, mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi lại rất thích. Thích không phải vì hiểu mà thích là vì được tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà thích vì niềm tin xuất gia của mình được đặt trọn vẹn vào thời kinh mình đang tụng ấy. Và mỗi khi tụng, lại thấy gốc rễ tâm linh của mình lớn lên. Nó lớn lên mỗi khi mình tụng và nó lớn lên mỗi ngày, đến nỗi thấy cái gì ở trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thiện và thấy ai đến chùa cũng đều phát xuất từ tâm hồn thánh thiện.
10/06/2021(Xem: 4465)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
06/06/2021(Xem: 4986)
Truyện ngắn: Ngỡ Ngàng Hòa Thượng Thích Như Điển Lời Đầu Tập sách nhỏ nầy được đến tay Quý Vị trong hoàn cảnh thật eo hẹp, ngay cả thời giờ cũng như số trang sách. Nó không là một quyển sách trọn vẹn như nhiều người mong muốn; mà đây là một trong những mẫu chuyện ngắn của Tác giả sẽ lần lượt giới thiệu với tất cả quý độc giả trong thời gian sắp tới. Câu chuyện của một người tu - nhập thế - họ sống trong xã hội đầy chông gai và thử thách, cố vươn lên để làm tròn nhiệm vụ. Mẫu chuyện nầy mặc dầu mang nhiều màu sắc về tình cảm cá nhân nhưng đó cũng là tình cảm của một con người biết sống và biết dung hòa mọi thế đứng trong cuộc đời của một người tu sĩ trẻ.
01/06/2021(Xem: 31600)
Loạt bài giảng về Chư Vị Thiền Sư Việt Nam (do TT Thích Nguyên Tạng giảng trong mùa dịch Covid-19) Thiền Sư Khương Tăng Hội (Thiền Sư VN, giảng ngày 3/6/2021) Thiền Sư Thích Đạo Thiền (Thiền Sư VN, giảng ngày 5/6/2021) Thiền Sư Thích Huệ Thắng (Thiền Sư VN, giảng ngày 8/6/2021) Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Sơ Tổ Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở Việt Nam Thiền Sư Pháp Hiền, Đời thứ 1, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền Sư Thanh Biện, Đời thứ 4, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền Sư Định Không, Đời thứ 8, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền Sư Vô Ngôn Thông, Sơ Tổ Thiền Phái Vô Ngôn Thông ở Việt Nam Thiền Sư Cảm Thành, Đời thứ 1, Thiền Phái Vô Ngôn Thông Thiền Sư Thiện Hội, Đời thứ 2, Thiền Phái Vô Ngôn Thông Trưởng lão La Quí, Đời thứ 10, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở Thiền sư Pháp Thuận, Đời thứ 10, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi Thiền sư Vân Phong, Đời thứ 3, Thiền Phái Vô Ngôn Thông Thiền Sư Khuông Việt, Đời thứ 4, Thiền Phái Vô Ngôn Thông Thiền sư Ma Ha Ma Ya, Đời thứ 10, Thiền P
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]