Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mưa nắng hai mùa

10/04/201312:54(Xem: 4513)
Mưa nắng hai mùa

 canhdep_8

Mưa nắng hai mùa

Thu Nguyệt

Nắng. Cái nắng làm người ta lúc nào cũng phải hấp háy mắt, ánh sáng dư thừa đến mức dường như có thể nhìn thấy từng mảng không khí xung quanh đang chuyển động như những váng dầu trên mặt nước. Nắng. Nắng như thế mà không nóng. Ngọn núi này có điều đặc biệt như thế. Những thân cây trụi lá, khô khốc, khẳng khiu, thế nhưng khi đưa tay thử bẻ một cành nhỏ, ta sẽ bất ngờ vì sự tươi mềm của nó. Giống như cây mai mới vừa được lặt lá trong những ngày sắp tết vậy. Chỉ có cây là hiểu rõ mùa, hiểu rõ nắng mưa vốn có. Ông Núi sống trong ngọn núi này cũng thế.

Người ta chẳng biết ông từ đâu đến và đến từ bao giờ, chỉ biết là từ lâu lắm, khi mới chỉ vài người đầu tiên đến đây lập nghiệp thì đã có ông Núi sống ở trong hang. Chẳng ai biết ông tên là gì nên cứ gọi là ông Núi. Như một bức tượng La Hán, ông Núi ít khi trò chuyện với ai. Ông sống bằng trái, lá cây và nước suối. Có lần một người dân trong vùng kể lại rằng anh ta mang đến cho ông một buồng chuối chín, rồi ngồi lại nhìn ông ăn. Ông không bẻ chuối rời ra như ta thường làm, mà cứ để nguyên buồng, tách võ, lấy ra từng trái rất khéo, ông ăn một mạch hết buồng chuối, mà nhìn như buồng chuối vẫn còn nguyên. Anh chàng thấy vậy liền mang buồng võ chuối về treo lên giữa nhà, buồng chuối khô dần nhưng không rữa mục, nhìn rất đẹp và ngộ. Từ đó, dân trong vùng, nhà nào cũng chọn một buồng chuối đẹp nhất, mang cúng ông và đem võ buồng chuối về treo trong nhà như một vật thiêng.

Xóm núi lơ thơ vài căn nhà nhỏ, bình yên giữa rừng cây cổ thụ bạt ngàn. Ông Núi thỉnh thoảng đến nhà chữa bệnh cho những người trong xóm. Ông có một xâu chuỗi rất đặc biệt, khi chữa bệnh, ông mài những hạt chuỗi ra, hòa với nước cho uống đúng ba lần là khỏi bệnh. Không biết xâu chuỗi của ông gồm những loại thuốc gì, nhưng bệnh nào ông cũng mài xâu chuỗi ấy. Ông ngồi bên bờ suối, giữa đá và nước, trong không khí yên ắng của rừng, chậm rãi, ung dung, nhẹ nhàng mài từng hạt, từng hạt... Nhìn dáng ngồi thanh thoát của ông khi mài chuỗi, người bệnh chưa uống thuốc đã cảm thấy như được khỏi bệnh rồi. Ông không đeo xâu chuỗi luôn bên mình, mỗi khi vào hang, ông để lại xâu chuỗi treo lên vách đá trước cửa hang. Trong xóm mỗi lần có người bệnh, đến tìm, nhìn thấy xâu chuỗi treo trước cửahang là biết chắc mình sẽ được cứu, không thấy tức là ông đi vắng. Ông đi đâu và bao giờ về thì không ai có thể biết được. Không phải trường hợp nào bệnh cũng được ông cứu chữa. Không ai tìm được ông, chỉ biết lúc nào cần thì ông xuất hiện, và ai được ông chữa thì chắn chắn là khoẻ, dù bệnh trạng có ngặt nghèo đến đâu.

Dân cư xóm núi ngày thêm đông đúc, cây cối thưa dần dù lắm chính sách tuyên truyền bảo vệ. Ông Núi ít chữa bệnh hơn dù người bệnh khá nhiều. Xóm núi đông người kèm theo nhiều mối quan hệ phức tạp. Núi bị chia chẻ thành nhiều mảnh sở hữu riêng lẻ. Rồi những cuộc cải vã, xô xát nhau đôi khi chỉ vì vài chục mét đất rẫy. Nơi nào có dấu chân nhiều người là nơi ấy bắt đầu có sự tranh giành, chiếm đoạt. Xóm núi đặc biệt có hai nhóm họ xung khắc rất dữ với nhau, đó là nhóm họ nhà ông Trần và nhóm họ nhà ông Phạm. Cùng là dân lưu lạc đến xóm này từ những năm sáu mươi. Họ đốt rừng làm rẫy và tranh nhau suýt mấy lần đổ máu. Mối hận vẫn ngun ngún cháy trong lòng cả hai bên.

Sắp đến mùa mưa rồi, cũng là mùa gieo hạt. Lại sắp phải cải nhau vì mấy cái rẫy màu mỡ bên kia đồi. Lòng người không đo được, nhưng vật sở hữu của người thì bất cứ thứ gì cũng được cân đong đo đếm rất kỷ lưỡng. Đất đai thì liền mạch nhưng ranh giới được vạch ra bởi con người thì lắm nỗi dọc ngang. Nếu đất mà nói được thì chắc là những cục đất ở các vạch phân chia phải nhiều tâm sự lắm!

Ông Trần bỗng nhiên ngã bệnh. Nhà họ Phạm hay tin này còn nhanh hơn những người thân nhà họ Trần. Ở đời, có khi nỗi đau của người này lại là niềm vui của người khác một cách nhẫn tâm hồn nhiên!

Ngày trước, cách đây hơn hai mươi năm, đã có lần ông Trần vác phảng rượt ông Phạm chạy chí chết vì tranh nhau miếng đất gần chân núi. Lần ấy, nếu không nhờ con suối cứu mạng - vì ông Trần không biết bơi - thì chắc là máu đã đổ. Mảnh đất ấy cuối cùng không về tay ai cả, vụ kiện chỉ đem lại cho làng mảnh đất sở hữu chung. Riêng ông Phạm “sở hữu” một mối nhục truyền đời, tháng ngày âm ỉ ngún trong sự phẩn uất. Ông đã nhờ vào đôi chân và khả năng bơi lội giỏi của mình để tự bảo vệ, nên pháp luật đâu có cơ hội để bảo vệ ông. Đôi khi ông ngồi nghĩ quẩn: Phải chi lúc ấy mình để hắn chém cho mình một phảng thì chắc chắn là hắn đã phải ngồi mục xương trong tù, hết huênh hoang khoác lác! Con cháu hắn sẽ mang một cái lý lịch là hậu duệ của một tên giết người, còn hắn sẽ mang một bản án của kẻ sát nhân bị mọi người kinh tởm, nguyền rủa. Còn ông, thà chết mà rửa được hận, còn hơn sống mà mang nỗi nhục triền miên. Đã có những lúc ông Phạm nghĩ như thế.

Nghe tin ông Trần bệnh, ông Phạm ngấm ngầm đi lên hang ông Núi dò la. Không nhìn thấy xâu chuỗi treo trên vách đá, ông khấp khởi mừng thầm, nhưng không yên tâm, ông tìm một góc khuất, ngồi quan sát. Người nhà ông Trần cứ vài giờ lại đến thăm chừng xem ông Núi đã về chưa. Hai luồng ý muốn, mong mõi khác nhau, người mong ông Núi về, kẻ mong ông Núi đừng có mặt; bên công khai, bên bí mật, nhưng cả hai đều sốt ruột, bất an và căng thẳng như nhau. Nhiều ngày trôi qua, vậy rồi ông Núi xuất hiện trong tiếng reo vui vỡ òa hy vọng và tiếng thở dài len lén thất vọng. Ông Phạm thất ý trở về khi ông Núi bắt đầu ngồi xuống mài hạt chuỗi đầu tiên .

Cơn bốc hỏa, nỗi bực tức vẫn đeo đẵng theo từng bước chân ông Phạm. Cái tên Trần ấy, sao nó không chết quách đi cho rảnh. Ông nhớ như in gương mặt đằng đằng sát khí và cái phảng lấp loáng ánh nắng sắc ngọt của ông Trần. Lửa căm hận trong lòng ông Phạm lại cháy. Ông cảm thấy nóng bức vô cùng. Bước chân vô tình dẫn ông đến đúng cái lối ngày trước ông Trần đã rượt đổi ông. Con suối bắt đầu vào mùa mưa, nước chảy rất mạnh, dâng tràn khiến đôi bờ suối mỗi ngày một xa rộng thêm ra. Ông bước ào xuống suối, đưa tay đánh tung tóe trên mặt nước. Không! Ông không thể chịu đựng mãi khi ông Trần cứ mỗi lần say rượu lại huênh hoang kể lại chuyện cũ, kể lại cái “thành tích” của mình, rồi miêu tả, rồi thêm thắt đủ thứ về cái sự yếu hèn, nỗi nhục nhã của kẻ thất thế để bôi nhọ ông. Ông đã chịu đựng nhiều rồi, ông không muốn con cháu ông sau này lại tiếp tục nghe câu chuyện ấy. Tháng trước, ông suýt vác dao sang nhà liều mạng với ông Trần một phen, khi nghe thằng cháu nội đích tôn của ông mới vừa 6 tuổi, đi ngang nhà ông Trần lúc ông này đang say rượu, ông ngoắc thằng bé vô và nói với nó: “Ông nội mày là thằng hèn! Tao đã từng vác phảng rượt nó chạy thục mạng, nếu nó không lạy tao đến bật máu trán ra, thì tao đâu có tha cho nó, để làm gì bây giờ có cái mặt mày trên đời!”. Câu nói này hơn hai mươi năm trước ông Trần đã nói tương tự như vậy với đứa con trai 8 tuổi của ông. Ông Phạm uất đến tím cả người. Nhục một mình ông chịu được, nhưng đến con ông, rồi đến cháu ông cũng phải chịu nhục vì ông thì ông không thể chịu đựng được nữa! Cái lão Trần ấy còn sống ngày nào là còn rêu rao, còn chọc ngoáy vào vết thương của ông, bôi nhọ ông và cả đến con cháu nhiều đời của ông nữa. Càng nghĩ ông càng căm hận. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, ông Phạm vội vàng bước lên khỏi suối, hối hả đi về nhà. Năm xưa, một người dân tộc đã cho ông một loại thuốc, hình như làm bằng nhựa cây hòa cùng nọc rắn gì đó, cực độc, dùng để bôi lên đầu mũi tên khi săn thú dữ. Bao nhiêu năm qua ông chẳng dùng để làm gì, vẫn cất kỹ. Ông vạch sẵn một kế hoạch trong đầu, ông sẽ tìm cách bôi lên xâu chuỗi của ông Núi. Dễ thôi mà, xâu chuỗi ông Núi vẫn treo ở cửa hang...

Tiếng trống mõ đám ma ông Trần thỉnh thoảng lại vang lên, dội vào tim ông Phạm từng nhát khó tả. Tiếng trống mõ đi vào cả trong giấc ngủ chập chờn của ông sau hơn ba tháng kể từ ngày ông Trần mất. Ngày nào ông Phạm cũng lên hang, ngồi chờ ông Núi, chờ để lấy xâu chuỗi mà chính tay ông đã bôi thuốc độc. Ông sợ ông Núi lại dùng xâu chuỗi ấy để chữa bệnh cho người khác nữa thì tội của ông không biết đến đâu. Nhưng ông Núi đi đâu vắng biệt. Ngày nào ông cũng sống thấp thỏm trong sự âu lo và chờ đợi và dằn vặt. Ông Phạm đếm từng ngày, hôm nay đã là ngày thứ 103, gần 4 tháng rồi! Ông Núi vẫn chưa về. Ông Phạm nhìn mãi lên cửa hang, đôi khi hoa mắt, ông như nhìn thấy xâu chuỗi ẩn hiện trên vách đá, khi thì nhòe nhoẹt màu đỏ như máu, khi lại thấp thoáng gương mặt ông Trần... Tinh thần ông Phạm ngày thêm hoảng loạn. Ông gầy rộc, hốc hác, ngơ ngẩn như người mất trí.

Ông Núi rồi cũng trở về, Ông Phạm đã lấy được xâu chuỗi. Ông mang xâu chuỗi về nhà, gói rất kỹ, giấu dưới gối và cấm tiệt không cho ai được bước lại gần giường của mình. Lấy được xâu chuỗi rồi, ông ngỡ rằng mình sẽ bình tâm lại, nhưng không, bệnh tình ông ngày một thêm trầm trọng. Người nhà ông lại thay phiên nhau đứng ở cửa hang chờ ông Núi. Nhưng ông Phạm biết, vô ích thôi, xâu chuỗi đâu còn nữa. Cho đến một ngày... khi ông Phạm lên cơn hấp hối thì ông Núi xuất hiện trước mặt ông với một xâu chuỗi y như thế trên tay. Ông Phạm gượng chút sức tàn, bảo con trai và cháu nội dìu ông quì xuống trước mặt ông Núi và trao lại cho ông Núi xâu chuỗi tẩm thuốc độc. Ông Phạm định kể lại tất cả tội lỗi của mình, nhưng ông Núi đã từ tốn nói:

- Ta đã biết tất cả, con không cần kể lại đâu. Ta còn có chuyện này để kể cho con nghe...

Khi ông Trần ngã bệnh, sau nhiều ngày chờ đợi ông Núi, nằm trên giường bệnh nhìn thấy sức lực của mình ngày thêm mòn mõi, cái chân cái tay ngày nào cầm phảng rượt đuổi ông Phạm qua mấy ngọn đồi giờ đã không cầm nổi ly nước uống. Khi gần đến cái chết người ta mới thấm thía những trò phù phiếm của cuộc đời. Không hiểu sao, trong những ngày cuối đời, người mà ông nghĩ đến nhiều nhất lại là ông Phạm, cái người mà hơn nửa đời người bị ông nhục mạ, cái người đã đem lại niềm “tự hào”, “vinh quang” cho ông, “thành tích” của ông!

Ông Núi đã mài thuốc cho ông Trần uống. Ông Núi tự tay mình bưng đến bên giường bệnh ông Trần và nói: “Thật ra, bệnh của con đã đến hồi không cứu được nữa rồi, nhưng nếu con còn muốn sống để tiếp tục cái nghiệp mà từ lâu nay con đã gieo với nhà họ Phạm, thì con hãy uống chén thuốc này.” Nhìn gương mặt hiền hòa thanh thoát diệu kỳ của ông Núi, ông Trần như người chợt tỉnh cơn mộng. Ông Trần đã không uống. Chén thứ nhất, rồi chén thứ hai (chén này là chén thuốc mà theo ông Phạm trước đây nghĩ là đã có thuốc độc) rồi chén thứ ba... Ông Trần vẫn không uống, mặc cho người nhà vật vã khóc than nài nỉ. Ông Núi dặn người nhà ông Trần không ai được nói ra rằng ông Trần vì đã không uống thuốc mà chết...

Ông Phạm nở một nụ cười nhẹ nhõm. Cũng như ông Trần, ông Phạm trút hơi thở cuối cùng trong ánh nhìn từ bi, bao dung của ông Núi. Dù chỉ là một ánh nhìn, nhưng cũng đủ làm thành một hành trang, nếu người ra đi biết nhặt nó cho vào trong hành lý của mình.

Mùa mưa qua rồi, con suối chảy nhẹ nhàng hơn và làm gần lại đôi bờ. Nắng. Trời lại nắng, và những thân cây trụi lá tiềm ẩn trong mình những nụ non xanh, vẫn sẳn sàng cho một mùa lộc mới, chỉ cần có nắng có mưa.

--- o0o ---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2018(Xem: 8194)
Cực tịnh sanh động (Truyện tích của HT Thích Huyền Tôn kể, do Phật tử Quảng Tịnh diễn đọc) Cách đây 28 năm (1973), hồi đó tôi 16 tuổi (1945), nghe kinh Bát Nhã và pháp Bảo Đàn, bỗng nhiên lòng tôi không còn luyến tiếc gì bản thân và muốn xa lìa tất cả để lên non cao tu luyện. Tôi đem ý nguyện ấy thưa với Bổn sư là Hòa thượng Diệu Quang, Tổ thứ sáu của Tổ đình Thiên Ấn và là vị khai sơn chùa Viên Giác núi Thanh Thanh - nơi tôi đang tu học.
26/09/2018(Xem: 3768)
Một anh chàng thanh niên lái xe mô tô rất là tài giỏi. Không cờ bạc, không hút sách, không rượu chè, anh ta có một thú đam mê duy nhất : lái xe mô tô. Đúng là một đức tính rất tốt cho các luật lệ giao thông rất nghiêm khắt ở xứ sở Kangaroo này. Thế nên bao năm qua vượt nhanh cũng nhiều, lạng lách cũng lắm, chưa bao giờ anh gây ra tai nạn nào, mà cũng chưa hề một lần phạm luật bị phạt vi cảnh.
26/09/2018(Xem: 6980)
Truyện kể rằng, ngày xưa có gia đình ông Trương Công Nghệ, họ hàng sống với nhau chín đời : cố, ông, bà, con, cháu, chắt, chít ... tính sơ sơ trên dưới trăm người, lúc nào cũng rất mực yêu thương, rất mực thuận hòa, vui vẻ và êm ấm, chẳng bao giờ thấy họ gây gỗ, ganh đua hoặc lục đục chia lìa và xa cách nhau.
24/09/2018(Xem: 9374)
Audio Truyện Cổ Tích: Chín Mươi Ba Kiếp Mới Gặp Lại Con; Việt dịch: HT Thích Huyền Tôn; diễn đọc: TT Thích Nguyên Tạng -- Vào khoảng thời gian hai mươi năm sau Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, Từ thành Tỳ-Xá-Ly hướng về phía Bắc Thành Ca-Tỳ-La-Vệ. Có một đoàn Tăng lữ gồm 17 vị, họ bước những bước chân nhịp nhàng và đều đặn, tuy không phát ra tiếng động của nhiều bàn chân cùng nện xuống mặt đất bột khô dưới sức nóng của mùa hè oi bức, nhưng không sao tránh khỏi lớp bụi bủn tung tỏa dưới sức dẫm của 34 cái bàn chân, tạo nên một đám mây cuồn cuộn; từ xa, tưởng chừng như các tiên nhân vừa từ trên không đằng vân vừa đáp xuống. Mây bụi vẫn cuộn trôi về phía sau lưng của họ, mặt trời càng rực đỏ và nghiêng hẳn về hướng tây, đến ngã rẽ, trước mặt họ là rừng cây khô trụi lá, một con quạ cô đơn ngoác mỏ kêu: Quạ! Quạ! Quạ!
11/09/2018(Xem: 3826)
Phía Bắc Trung Ấn Độ, vào thời cổ xưa, hơn 2000 năm, có một vị Thủ Tướng của nước Ba-la-nại, gia sản của ông rất là giàu có, quyền tước lớn, nhưng lòng ông luôn mang một nỗi niềm đau khổ. Vì, tuổi tác càng ngày càng già, tuy nhiều vợ, nhưng không một bà nào đem về cho ông một niềm vui mà ông mãi hoài mong thao thức, đó là một đứa con trai.
01/09/2018(Xem: 2994)
Có những niềm vui
24/08/2018(Xem: 5450)
Kịch : Tôn Giả Vô Não Biên soạn và đạo diễn: Trần Thị Nhật Hưng Hai màn Diễn viên: Sư phụ, sư mẫu,Vô Não và vai Đức Phật. Lời giới thiệu: Kính thưa Quí vị Là Phật tử, hẳn chúng ta đã từng nghe về nhân vật cắt 1000 ngón tay, xâu đeo vào cổ. Đó là chuyện tích Phật giáo nói về ngài Vô Não mà Đức Phật đã chuyển hóa thành một người tốt và trở thành đệ tử của Phật, về sau còn đắc quả A La Hán nữa. Hôm nay trên sân khấu này, chuyện tích đó sẽ được kể lại dưới ngòi bút của Trần Thị Nhật Hưng qua sự diễn xuất một cách sống thực của... Kính mời Quí vị theo dõi. Đây màn kịch Vô Não xin bắt đầu.
21/08/2018(Xem: 11444)
Mục Kiền Liên vốn xuất thân Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang Ông cha tu rất đàng hoàng Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên, Nhưng bà mẹ thời luân phiên Làm điều ác đức cho nên trong đời Gây nhiều nghiệp nặng tày trời Kiếp sau quả báo vào nơi đọa đày. Riêng Mục Liên nổi tiếng thay Thông minh, hiếu thảo lại đầy lòng nhân Can trường, cương nghị, lạc quan Thấy điều bất chính là can thiệp liền.
16/08/2018(Xem: 7860)
Trong nhiều bài kinh từ Hán tạng cho đến Pali tạng, Đức Phật tán thán hạnh hiếu dưỡng cha mẹ vì công ơn mang nặng đẻ đau và dưỡng dục của cha mẹ là vô ngần, không thể tính kể. Cho nên trong Tăng Chi Bộ, Thế Tôn gọi Cha Mẹ là Phạm Thiên, và những con cháu trong gia đình nào mà kính dưỡng cha mẹ được xem ngang bằng với Phạm Thiên: “Những gia đình nào, trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường”
13/08/2018(Xem: 6713)
Từ ngày vào chùa ở với sư cụ, chú Nhị Bảo ít khi được về thăm gia đình, mặc dù từ chùa về nhà không xa lắm, chỉ băng qua một cánh đồng, một khu rừng đầy thông reo là đến con đường lớn dẫn thẳng về nhà. Nếu đi bộ, chú phải mất hơn mấy tiếng đồng hồ. Công việc của chú hằng ngày tuy đơn giản nhưng thời khóa cũng khít khao. Sau những giờ hầu sư cụ, chú học kinh, viết chữ nho và thỉnh kệ chuông U Minh buổi tối. Mỗi ngày, chú còn phải đến lớp để tiếp tục chương trình phổ thông cơ sở. Chú học giỏi lại có hạnh kiểm tốt, đặc biệt gương mặt trong vắt ngây thơ và thánh thiện của chú khiến mọi người ai cũng mến yêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]