Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngồi buồn.

10/04/201312:47(Xem: 5578)
Ngồi buồn.


NGỒI BUỒN

DƯƠNG NHƯ TÂM

---o0o---

Ðó cũng là tựa đề bài thơ của Nguyễn Duy, người viết bài này sau nhiều năm tìm kiếm, chắp nhặt nay mơi lượm được toàn vẹn. Tuy không phải là người chuyên đọc và phê binh hoặc giới thiệu thơ, càng không phải là người yêu thơ văn, nhưng ý nghĩa bài thơ đã thật sự gieo vào tâm khảm người đọc về một ý niệm – giá trị tuyệt vời, tạo nên sức sống cho bài thơ mà việc làm, tìm tòi của tôi – như vừa nói – xuất phát cũng từ đó. Mãi cho đến gần đây, qua làn sóng Ðài Tiếng nói Việt Nam, qua giọng ngâm của Nghệ sĩ Trần Thị Tuyết, khiến cảm niệm ai hoài, nhân tiết hội Vu Lan thêm rạo rực. Và tôi nhận thấy không thể không giãi bày sự cảm niệm riêng tư ấy.

Nhà thơ Nguyễn Duy có lẽ đi từ ca dao được mẹ ru bên cánh võng thử ấu thơ, nêu trong tâm khảm đã bật ra bao nỗi lòng bằng chính lời ru, và đã được lấy tựa đề cho bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”. Bài thơ được bắt đầu bằng sự sâu lắng hết sức thiêng liêng, mênh mông gợi lên cho ta một khoảng không gian rộng lớn, làm lộ rõ nét cô đơn của đứa con mồ côi vừa mất mẹ:

Bần thận hương huệ thơm đêm

Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn

Chân nhang lắm láp tro tàn

Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.

Tại sao lại phải là “khói nhang” mà không là ánh nến mới có thể “vẽ nẻo đường kên Niết bàn”? Giữa khói nhang và Niết bàn trong bài thơ đủ nói lên tập quán dân tộc với chân lý Phật giáo, dù Niết bàn với ý nghĩa Phật học không là điều đơn giản. Theo tinh thần Hoa Nghiêm thì Niết bàn không xảy ra trong thế giới khách quan mà chỉ xảy ra trong thế giới nhận thức. Bằng con mắt tục đế, chúng ta dễ dàng hiểu được Niết bàn trong thơ Nguyễn Duy, có nghĩa là một vị trí – địa danh xứng đáng đối với tấm lòng hiếu thảo của người con dành cho người mẹ, nên chúng ta chấp nhận được. Và có lẽ như biết được ý nghĩa trên nên Nguyễn Duy phải nói “vẽ nẻo đường lên Niết bàn”. Nhìn thấy “chân nhang lấp láp tro tàn” là một hình tượng tất yếu về một kiếp đời thọ nghiệp; nó còn nói lên cái bóng, công ơn lao nhọc cả cuộc đời của mẹ một cách cô đọng, thay vì tác giả phải kể lể bằng nhiều hình ảnh khác như “cánh cò lặn lội...”v.v...

Mẹ ta không có yếm đào

Nón mê thay nón quan thao đội đầu

Rối ren tay bí tay bầu

Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.


Từ trước đến nay, tuy tự nhận mình là một người ít khi tiếp xúc với thơ văn, nhưng tôi vẫn chưa thấy có moọt áng văn thơ nào ca ngợi – tả tỉ mỉ về một người mẹ giàu sang, chân tay cắt móng gọn gàng, mắt mũi đầy ắp silicon đặc sệt; chỉ là những bà mẹ nghèo, tần tảo, chai sần da sạm với đôi quang gánh đè nặng bờ vai lao nhọc. Ai đã từng thấy được dây bí, dây bầu, dây mướp leo với vô số tay quăng bám chặt và rẽ ngọn trăm hướng để giữ cho thân mình đủ sức mang nặng những đứa con - những trái đậu lủng lẳng, lúc nào, cũng ghì nặng thân dây... mới cảm nhận được câu thơ của Nguyễn Duy đến nao lòng, và thầm thán phục sự ví von tài tình – tuyệt vời của nhà thơ. Không phải của đất nước ta vốn có truyền thống văn minh nông nghiệp, mà khi nói về “nhuộm bùn”, tức là làm ruộng, cuốc đất, trồng cây; đó chỉ là một sự hiểu biết, hàm sức về tình mẹ phương Ðông, muốn tự mình nuôi dạy con cái, chịu đựng tất cả lao nhọc để cho con khôn lớn; không dựa dẫm vào bảo hiểm, nhà trẻ, cấp dưỡng hoặc phó mặc cho xã hội, nhà trường. Màu nâu còn là màu của đất, mà đất thì được tắm mát bởi nhân duyên của bốn mùa nhiết đới vốn hằng gian khổ. Người học Phật còn “đi sâu” vào lòng đất hơn bằng tư tưởng tuyệt vời của Tâm địa quán; nó sinh ra tất cả và nó ôm ấp tất cả (Chúng sinh chi tâm du như đại địa, ngũ cốc – ngũ quả tùng đại địa sanh). Kể cả cái tâm của tam giới cũng chỉ là 3 tên của đất (Dĩ thử nhân duyên tam giới, duy tâm tam danh chi địa). Phải chăng do các yếu tố chân lý đó nên chư Tổ truyền thừa xứ ta xưa kia đã khéo chọn màu nâu để hàng Tăng lữ mặc, ngầm nhắc nhở về một duyên sanh, một ứng dụng tùy cơ cho đạo Phật Việt Nam.

Cái cò – sung chát – đào chua

Câu ca mẹ hát gió đưa về trời

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.

Những lời tiêu biểu trong các bài hát ru, còn là những kỷ niệm tuổi thơ, đưa vào trong miệng bắt đầu kể thứ gì đang nắm được trong tay, và còn mãi tiếc nuối, nên thay vì “cây cải về trời”, ta nghe như lời ru rất thiêng liêng phải được bay về trời, cao mãi, cao vút. Vì thế mà bàn chân ta dong ruổi với gói hành tràng mang theo đó là những lời mẹ ru; lỡ mai ta nằm xuống thì vẫn còn đó, còn hoài với đạo lý thế nhân: những lời ru.

Bao giờ cho đến mùa Thu

Trái hồng, trái bưởi đãnh đu giữa rằm.

Nhà thơ Nguyễn Duy chắc lúc tuổi thơ được thừa hưởng những kỷ niệm vui buồn dưới tàn cây trong vườn nhà, mùa nào thức ấy cho nên luôn nhìn được những quả trái trên cành mà mẹ dành chờ qua rằm cúng Phật, cúng tổ tiên hoặc đem bán đổi gạo. Riêng tôi, “những trái hồng, trái bưởi đánh đu giữa rằm” là kỷ niệm về một cách lễ nghĩa mẹ dạy “để cúng Phật – ông bà xong, mẹ cho ăn”, vì thế “đánh đu” của tôi có ngiax là thèm thuồng bởi những trái cây cúng Phật thường được mẹ chọn lựa trái to nhất, ngon nhất.

Bao giờ cho đến tháng Năm

Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao

Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm

Bờ ao đom đóm chập chờn

Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi.

Những ý thơ này chắc rằng ai ai cũng đều có được diễm phúc tận hưởng. Dưới ánh mắt và trí tưởng tượng của tuổi thơ, ta nhìn vạn vạt đều có thật một cách dễ dàng và gần gũi. Sao trên trời làm sao mà đếm được, nhưng tuổi thơ đếm được (một ông sao sáng, hai ông sáng sao...)dù đó chỉ là đường vòng tròn không kết thúc, để đưa ta vào... giấc ngủ! Ðể rồi các thế hệ nối tiếp nhau, thay nhau mà tiếp tục đếm; đếm hoài cho đến khi qua tuổi trưởng thành rồi nhường lại cho đàn con mà ta tiếp tục ngồi vào vị trí của người mẹ. Cho nên:

Mẹ ru cái lẽ ở đời

Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn.

Dù trong nhận thức đã từng hiểu được giá trị đích thực của những chuẩn mực đạo đức cần thiết nơi mỗi con người, thế mà tôi vẫn phải giật mình khi đọc đến hai câu này! Quả thật, trong kho tàng hát ru của dân tộc, có câu nào mà không mang nặng một ý nghĩa nhân văn nào đó, kể cả những điều nhỏ nhất. Ở người mẹ Việt Nam sữa và hát có đủ đầy nuôi bao thế hệ khôn lớn, vỗ an bao nghĩa đậm tình sâu và đúc kết nên bản thiên trường ca tình mẹ bất tử. Ngày nay, có không ít em bé được lớn kên, được nuôi dưỡng từ sự ỷ lại và phó mặc; ru con bằng máy cassette mà trong đó vọng ra nào là giai điệu Pop – Rock – Disco và hiện nay là Rap, đẻ rồi các em này lơn kên khi bập bẹ đã thốt ra được nào là “Bai” – “Ok” – lớn lên chút nữa thì “Ta là Triển hộ vệ đây!”, “Ta là Ninza đây!”. Cho nên chính nhà thơ đã phải thốt lên, đầy nỗi lo lắng:

Bà ru mẹ, mẹ ru con

Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?

Chỉ có những đứa con được lớn lên mang trong mình cả xác lẫn hồn mẹ cho dù có phieu bạt góc bể chân trời vẫn không quên được nơi nào quê mẹ và vị trí đặt nôi võng khi xưa ta nằm. Ấy vaayjmaf niềm thương trọn vẹn đó vẫn như da diết, ai hoài:

Nhìn về quê mẹ xa xăm

Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa.

Ðể rồi nhà thơ chọn cau ca dao để kết thúc bài thơ như trả về cho đạo lý dân tộc một gia tài nguyên vẹn; lại nữa như muốn gợi ý với thế nhân rằng: dù thơ cac có hay đến thế nào đi nữa cũng không bằng chính lời ru mộc mặc khi nao, xem như sự kết thúc cũng là sự bắt đầu. Với tôi, đó còn là lời nhắn nhr với những ai đã chóng quên cội nguồn, mà thiếu vắng nó không còn là một giá trị văn hóa – nhân bản của một dân tộc”

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

TRUYỆN NGẮN VỀ THỜI SINH HOẠT ÁO LAM


---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5790)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5888)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3944)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4811)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15657)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3245)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11534)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18855)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6408)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3323)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]