Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhà Văn Võ Hồng.

10/04/201312:46(Xem: 5402)
Nhà Văn Võ Hồng.

Nhà văn Võ Hồng


Nhân văn


Võ Hồng sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921 ( gia đình nói là sinh ngày 05 tháng chạp năm nhâm Tuất) tại làng Ngân Sơn, tổng An Sơn Phủ Tuy An, tỉnh Phú Yên ( Trung Việt).

Năm 1945 làm Bí thư toà Tổng đốc Đà Lạt (Chính phủ Trần Trọng Kim).

Từ 1946 - 1949: Trưởng ban Bình dân Học vụ huyện Tuy an. Trưởng ty Bình dân học vụ tỉnh Phú Yên.

1949 - 1953: Dạy học ở trường Trung học Lương văn Chánh rồi làm Hiệu trưởng

1956 - 1975: Dạy học trường Trung học Bồ Đề và trường bán công Lê quý Đôn ở Nha Trang

1975 - 1983: Hiệu trưởng trường Phổ thông cơ sở Tân Lập Nha Trang

Tác phẩm Võ Hồng vẽ lại cảnh sinh hoạt của nông thôn và đô thị miền Nam trong giai đoạn từ thập niên 1930 đến nay, đậm nhất là vào các thập niên 40, 50, 60, 70.

Nội dung tác phẩm: 1. Cuộc kháng chiến 1945 - 1954

2. Cuộc sống ở nông thôn và đô thị giai đoạn 1954 - 1975

3. Viết cho tuổi nhỏ

vohong.jpg (28046 bytes)

Nhà văn Võ Hồng và ĐĐ Thích Tịnh Hạnh
Hình chụp tại nhà của ông, Thành phố Nha Trang
vào tháng 10/2000




Địa chỉ liên lạc

Nhà Văn Võ Hồng
53 Hồng Bàng, TP. Nha Trang
Điện thoại: (84). 058. 510718
Email:
vohong51@yahoo.com


30 tác phẩm của nhà văn Võ Hồng

T T

TÊN TÁC PHẨM

THỂ LOẠI

THỜI GIAN CÔNG BỐ

1

Hoài cố nhân

Truyện ngắn

NXB Ban Mai - 1959

2

Lá vẫn xanh

-

NXB Thời Mới - 1962

3

Vết hằn năm tháng

-

NXB Lá Bối - 1965

4

Con suối mùa Xuân

-

NXB Lá Bối - 1966

5

Khoảng mát

-

NXB An Tiêm - 1966

6

Bên kia đường

-

NXB Mặt Trời - 1968

7

Những giọt đắng

-

NXB LáBối - 1969

8

Trầm mặc cây rừng

-

NXB LáBối - 1971

9

Trong vùng rêu im lặng

-

Hội VHNT Nha Trang - 1988

10

Vẫy tay ngậm ngùi

-

NXB Trẻ - 1992

11

Vùng trời thơ ấu

-

NXB Trẻ - 1995

12

Chúng tôi có mặt

-

13

Thơm ngát hương cau

-

14

Hồi ức

-

15

Hoa bươm bướm

Truyện dài

NXB LáBối - 1966

16

Người về đầu non

-

NXB Văn - 1968

17

Gió cuốn

-

NXB LáBối - 1969

18

Nhánh rong phiê�u bạt

-

NXB LáBối - 1970

19

Như cánh chim bay

-

NXB LáBối - 1971

20

Thiên đường ở trên cao

-

Sở VHTT Nghĩa Bình - 1987

21

Thương mái trường xưa

-

NXB Trẻ - 1993

22

Vượt bao gập ghềnh

-

23

Tiếng chim vườn ngoại

-

24

Áo em cài hoa trắng

Tùy bút

NXB LáBối - 1969

25

Mái chùa xưa

-

NXB LáBối - 1971

26

Một bông hồng cho cha

-

NXB Văn Nghệ TP. HCM - 1994

27

Hồn nhiên tuổi ngọc

Thơ

NXB Trẻ - 1993

28

Thời gian mây bay

-

NXB Đồng Nai - 1996

29

Trầm tư

Đoản văn

NXB Trẻ - 1995

30

Chia tay người bạn nhỏ

Truyện vừa

NXB Trẻ - 1990

Sau Ba Mươi năm

Nhờ đất cho món ăn

Nhờ nước đưa thức uống

Hô hấp nhờ khí trời

Mà cây đầy sức sống

Cũng vậy ba đứa con

Truyền cho cha sinh lực

Lao khổ dầu sớm hôm

Cô đơn dù nhức buốt

Nhưng nhìn con lớn khôn

Cha quên mọi cơ cực

Đứa Út vừa lên ba

Biết mẹ qua tấm ảnh

Miệng chỉ quen gọi cha

Khi đói và khi lạnh

Chị lớn chín tuổi tròn

Đóng vai người mẹ nhỏ

Vội vã học điều khôn

Cửa nhà tập coi ngó

Thằng giữa khi vào lớp

Tên mình tưởng tên ai

Thầy hỏi không biết đáp

Nghe chim hơn nghe bài

Nay các con nên người

Mỗi đứa đi một ngả

Mình cha căn nhà xưa

Trông vừa quen vừa lạ

Không còn ngày gian khổ

Chỉ dư ngày tiêu điều

Vắng con như cây cỏ

Héo úa giữa quạnh hiu

Tuổi già ngồi ngẫm lại

Quý nhất của đời mình

Là ba đứa con dại

Cha nuôi đến trưởng thành.

VÕ HỔNG

- o0o -

___________

Computer typesetting: Nguyên Chí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2084)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3316)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2657)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2816)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2035)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1859)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2250)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1705)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567