Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tham thì thâm.

10/04/201312:34(Xem: 7880)
Tham thì thâm.

Tham Thì Thâm

Hương Giang Tư Mã

Thuở xưa có một gia đình nọ, cha mẹ chết để lại cho hai anh em một cơ sở khá vững vàng. Hai anh em vui sống trong cảnh hòa thuận và được sự mến thương của bà con láng giềng. Trong mái nhà ấm cúng, tình huynh đệ biểu lộ đậm đà với hương khói thờ phụng tổ tiên.

Nhưng ít lâu sau thì người anh lấy vợ. Từ lúc chị dâu vào nhà thì mối tình giữa hai anh em cũng bắt đầu suy giảm. Một ngày nọ, do sự xúi giục của chị dâu, người anh bảo với người em :

- Bây giờ em đã lớn rồi, phải tự lập cánh sinh và đã đến lúc anh em chúng ta chia của cải cho phân minh, để em có phương tiện lập thân, lập nghiệp trên đường đời mà xông pha với thiên hạ.

Nghe chồng nói như thế, bà vợ bèn phụ họa với mấy câu ca dao :

"Làm trai cho đáng nên trai :

Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài yên".

"Làm trai có chí lập thân

Rồi ra gặp hội phong vân có ngày...".

Nghe bà chị dâu rao lên hai câu ca dao nghe cũng vui tai, người em liền thưa :

- Dạ, anh chị dạy thế nào, em xin vâng theo.

Người anh dõng dạc tuyên bố như sau :

- Của cải cha mẹ chúng ta để lại tựu trung gồm có ba giống : giống đực, giống cái và giống con. Mày bé nhỏ, nên tao nhường cho mày tất cả những đồ đạc giống đực, còn những gì giống cái và giống con thì phần tao.

Bà chị dâu phụ họa :

- Chú em nghĩ thế nào ? Theo chị nghĩ thì chia ra âm dương như thế là công bằng nhất, vì thuận lẽ trời đất.

Người em vốn hiền lành, chất phác, chưa kịp nghĩ gì cả, nhưng vì bị dồn vào thế bí của hai vợ chồng đã đồng lòng với nhau từ trước, bèn trả lời :

- Xin vâng, anh chị đã có lòng thương em út, em út đâu dám chối cãi. Có nhiều hưởng nhiều, có ít hưởng ít, đâu có sao.

Thế là cuộc chia của bắt đầu. Dựa vào quyền huynh thế phụ, người anh và bà chị dâu chọn đếm trước tiên. Những vật nào trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn, ngoài ruộng, đều là cái là con, khiến cho người anh đếm mãi từ sáng đến chiều, mỏi cả miệng : cái nhà của tao, cái giường của tao, cái tủ của tao, cái lu của tao, cái nồi của tao... con trâu của tao ; vân vân...

Đếm như thế từ sáng đến chiều hôm, biết bao nhiêu là của chìm của nổi, cái nhớ cái không, mà tuyệt nhiên chưa thấy một vật nào thuộc về giống đực cả ! Mãi đến lúc trời tối, người em sốt ruột quá, vì của cải kê khai đã gần hết, bèn tỏ sự bực tức, đứng phắt dậy, chụp lấy cây dao rựa dựng nơi hè nhà, mà nói rằng :

- Đây là đực rựa thuộc phần em.

Nói xong, vác rựa ra đi giữa đêm tối, trong lúc người anh còn đang kiếm thêm đồ đạc để đếm, còn người vợ chạy ra ngoài sân nói với một câu ca dao :

"Làm trai đã quyết thì hành

Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây".

*

Từ ngày rời khỏi mái nhà của cha mẹ để lại, người em ngày ngày vác rựa vào rừng chặt củi làm kế sinh nhai. Vì không có nhà, nên phải ăn nhờ ở đậu, nay đây mai đó, nhưng vẫn cố gắng tự lập, sống với mồ hôi nước mắt, không muốn nhờ vả, ăn xin kẻ khác. Một hôm trăng non vừa mọc, anh đang ngủ say thì có tiếng quạ kêu, khiến anh thức dậy, nhìn bầu trời bao la trong sáng, tưởng như trời sắp sáng, bèn vớ lấy cây rựa đi miết lên rừng. Đến đầu rừng mới biết mình nhầm, trời vẫn còn khuya. Quả thật, đối với những kẻ màn trời chiếu đất, cầu sương điếm cỏ, thì dù là ban đêm họ vẫn thấy sáng và đó cũng là niềm an ủi duy nhất của họ.

Người tiều phu bèn nằm duỗi chân dưới một gốc cổ thụ mà chờ sáng. Rồi ngủ quên lúc nào không biết, anh chàng không ngờ rằng nơi đây là chốn nô đùa của một bầy khỉ. Hôm ấy, như thường lệ, chúng kéo nhau đến đây, nhưng chợt thấy dưới gốc cây có một người lạ nằm thẳng đuỗn thì cho rằng đó là một thây người. Chúng bèn xúm nhau khiên đi chôn, để lấy chỗ nhẩy nhót. Đang được khiêng đi, chàng tiều phu bỗng tỉnh giấc, toan la lên, nhưng thấy chuyện hay hay, bèn cứ nằm im để xem bọn khỉ khiêng mình tới đâu. Hồi lâu, anh nghe bầy khỉ đứng lại nói với nhau :

"Hà rầm hà rạc,
Chôn vào hố bạc,
Không chôn hố vàng".

Nhưng trong bầy khỉ, có con khỉ đột đứng đầu, bảo chúng :

"Hà rầm hà ràng,
Chôn vào hố vàng,
Không chôn hố bạc".

Thế là bầy khỉ tiếp tục khiêng người tiều phu tới một chỗ khác xa hơn. Đến nơi, chúng đặt anh ta xuống đất, rồi kéo nhau về chỗ cũ, nơi gốc cổ thụ để nhảy múa. Anh chàng mở to mắt nhìn quanh mình, thấy vô số vàng cục sáng chói cả hố lớn, thì mừng lắm. Chờ cho bọn khỉ đi thật xa, anh ta mới lồm cồm đứng dậy nhặt đầy túi, mang về dấu một nơi. Rồi mới bắt đầu tạo nhà cửa, trâu bò, ruộng trưa. Ruộng thì thấp, trưa thì cao. Trưa để gieo giống thành mạ, ruộng để cầy và cấy lúc cho tới mùa gặt hái. Anh ta bèn nhớ tới mấy lời cha dậy ngày trước :

"Con hư tại mạ,
Má hư tại trưa".

Lúc trở thành giàu sang, người tiều phu bèn nhớ thương cha mẹ ngày trước đã tảo tần nuôi dưỡng hai anh em nên vai nên vế. Anh thương tiếc cha mẹ như thầy Tử Lộ ngày xưa, lúc thành đạt hiển vinh thì cha mẹ chẳng còn để phụng dưỡng "

"Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng,
Con muốn phụng dưỡng cha mẹ ma cha mẹ chẳng còn".

(Mộc dục tịnh nhi phong bất đình,
Tử dục dưỡng nhi thân bất tại).

Anh cũng không quên người anh và bà chị dâu, mặc dầu họ đối xử với anh rất tồi tệ, nhưng anh sẵn sàng tha thứ mà quên chuyện cũ. Từ ngày trở nên giàu có, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn dài, rồi cũng tới tai người anh bà chị. Họ bán tín bán nghi, vì họ nghĩ rằng : vỏn vẹn chỉ có một cái đực rựa thì làm nên trò trống gì ?

Một ngày kia, nhân ngày giỗ cha, người em bèn tìm đến nhà người anh, mời anh về nhà ăn giỗ, vì anh ta nghĩ rằng dù sao cũng là một thịt, chắc anh mình bị ảnh hưởng của bà vợ, chứ đâu đến nỗi tệ như thế.... Được mời, người anh vội vã đi theo em, trước là để báo hiếu với cha mẹ và tỏ tình huynh đệ, sau là để dò xét sự trạng nhà cửa em mình ra sao. Khi đến nhà, người anh không ngờ em mình giàu đến thế : nhà cao cửa lớn, vườn ruộng cò bay thẳng cánh, kho đụn đầy mặp, vườn ruộng cò bay thẳng cánh, gia nhân kể cả mấy mươi.... Người anh bèn hỏi người em :

- Từ dạo ấy đến giờ, chú em làm thế nào mà phát tài dữ vậy ?

Người em, bẩm tính lương thiện và đại lượng, bèn kể tỉ mỉ cho anh nghe câu chuyện, từ khi được anh chị chia cho cây rựa nhựa, lên rừng đốn củi nuôi thân, gặp bầy khỉ, và từ hố bạc được chuyển sang hố vàng...

Vừa nghe em kể xong câu chuyện, người anh quên cả cúng vái, bèn mượn em cái đực rựa, chạy một mạch lên rừng, tìm được gốc cổ thụ theo lời chỉ dẫn của em, rồi nằm duỗi cẳng ngắm trăng non và chờ bầy khỉ. Quả nhiên, một lát sau, có một bầy khỉ đến nhẩy nhót xung quanh gốc cây. Chúng thấy có người lạ nằm choán chỗ chúng vui đùa, bèn xúm lại khiêng đi chôn, vì chúng tưởng đó là một thây người chết.

Giữa đường đi chôn, bầy khỉ nói với nhau :

"Hà rầm hà rạc,
Chôn vào hố bạc,
Không chôn hố vàng".

Khi nghe bầy khỉ nói như vậy, người anh vội ngửng đầu lên cãi :

- Chôn vào hố vàng chứ ! Chôn vào hố vàng chứ !

Bầy khỉ không ngờ cái thây người vẫn còn sống, cuống cuồng quẳng hắn xuống đất rồi bỏ chạy. Hắn bị lăn xuống sườn núi, đầu va vào đá, vỡ sọ mà chết !

Bài học của chuyện tích này là :

- Tham thì thâm, dầm thì đen

- Ác lai ác báo

- Ở hiền gặp lành

- Trời thương Trời ngó lại.

Truyện tích này được truyền tụng khắp các dân tộc vùng Đông Nam A, từ Vân Nam cho tới xứ Nùng, xứ Chiêm với lũ khỉ mà họ gọi là "kra thơn" xứ Tày, đại khái cốt chuyện giống nhau, chỉ khác về chi tiết liên hệ thủy thổ và phong tục của các sắc dân trong vùng này.

Từ sự tích đó về sau, người ta cho rằng người đàn ông đi đâu cũng mang rựa bên mình, cho nên người đàn bà, lúc nào giận hờn, cũng mắng người đàn ông là : "đồ đực rựa", "quân đực rựa" chỉ biết cỡi ngựa rong chơi...

Ngoài ra, chúng ta cũng nên lưu ý tiếng "đực" không mấy khi dùng làm quán từ (article) như "cái" và "con". Tuy nhiên, từ Nghệ Tĩnh trở vào cũng có nơi dùng tiếng "đực" như một tính từ (adjective), để chỉ một vật gì to, khỏe, bậm bạp, ví dụ : một đực bò, một đực rận, một đực rựa...

Trong Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, ấn hành năm 1896 tại Sài Gòn, chúng ta thấy ghi :

Đực mẫm : giống đực to vóc, cả sức lực. Tiếng nói chơi người có vóc lớn mà dở.

Sau hết, chúng ta thấy ghi trong "Dictionare Viêtnamien Chinois Francais" của linh mục Eugène Gouin, des Missions Etragères, ấn hành tại Sài Gòn năm 1957, những từ ngữ sau đây : bò đực taureau, con bạc đực un joueur, cau đực aréquier mâle, người đực femme stérile, tre đực bambou mâle, đực đột un étalon, un verrat, đực mặt nhìn nhau se regarder ahuris, đực rựa conteau à longue manche./.

Trích Phật Giáo Hải Ngoại Số 9

- o0o -


Vi tính: Hải Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2013(Xem: 7589)
Ngài Hàn-Sơn : Trong thế gian mà bị người phỉ báng, khi dễ , nhục mạ, cười chê, khinh khi , chà đạp, ghen ghét , đè bẹp, đố kị ta. Như thế, ta phải xử trị cách nào ?
05/04/2013(Xem: 8009)
Sáng nay một đạo hữu đem sách này trao tôi, nhờ đọc xem có tham phá Phật pháp không. Sau khi đọc hết tôi nhận thấy trừ vài chi tiết, phần chủ yếu của sách chẳng có chi trái nghịch Phật pháp, theo những nhận định dưới đây ...
05/04/2013(Xem: 5260)
Ambapàli (Am-ba-bà- lị) nguyên là một kỹ nữ hạng sang sống tại thành Tỳ-xá-li. Nàng sở hữu nhiều tài sản, trong đó có một khu vườn xoài nổi tiếng xinh đẹp nhất thành phô và cũng là trung tâm giải trí lớn nhất của tầng lớp thượng lưu.
05/04/2013(Xem: 2998)
Trước năm 1975, ba tôi là một thương gia giàu có. Sự giàu có không bắt nguồn ba là quan chức đầy thế lực hay thân cận chính quyền. Ba tôi chỉ là một người dân lương thiện thuần túy. Ngày ba mẹ dắt đứa con trai nhỏ từ Bắc vào Nam, ba mẹ tá túc tại nhà người chú họ bên mẹ. Người chú có một xưỡng sản xuất bánh kẹo, thế là ba mẹ tôi vừa được xem là “con cháu trong nhà” vừa làm việc đắc lực cho chú. Đương nhiên thôi, chân ướt chân ráo vào Nam với hai bàn tay trắng, có nơi ăn chốn ở tạm gọi là an thân còn mong gì hơn. Thế nhưng, cuộc đời không đơn giản như thế. Ba mẹ tôi chỉ được nuôi ăn nhưng không nhận được đồng lương nào, dù chỉ vài đồng tiêu vặt.Tiền với ba tôi không phải là cứu cánh, nhưng nó là phương tiện để giải quyết nhu cầu cần thiết, cơ bản của con người.
04/04/2013(Xem: 11901)
Phải chăng là "niêm hoa vi tiếu" hay những nghịch lý khôi hài? Là nụ cười bao dung hỷ xả hay những lời châm biếm chua cay? Là tiếng cười vang tự đáy lòng hay chỉ là cái nhếch môi vô tâm vô sự? Là công án Thiền của thời đại hay chỉ là những chuyện tiếu thường tình? Là dụng tâm chỉ trích phá hoại hay thiện ý khai thị mạch nguồn?
02/04/2013(Xem: 14765)
Khi chọn lựa đề tài và sắp đặt câu chuyện, tôi mong rằng sẽ đi sâu từng chi tiết một, để câu chuyện hữu lý hơn; nhưng trước khi đi Canada lần nầy đã cung đón Đức Đạt Lai Ma về Chùa Viên Giác, nơi tôi đang trụ trì; nên có lẽ Chương đầu của quyển sách nầy, chỉ nói về bậc Thánh nhân ấy, không liên quan trực tiếp đến câu chuyện của quyển sách.
01/04/2013(Xem: 16517)
Mục Lục: HT Thích Như Điển - Xuất gia học đạo - Chùa Phước Lâm - Làm Nhang - Học tập - Về lại chùa Viên Giác - Ngày mất mẹ - Làm đậu hủ - Pháp nạn năm 1966 - Học tán tụng - Về Cẩm Nam - Hội An ngày ấy - Hồi ký - Tết năm Mậu Thân - Thầy tôi - Di tích - Chiếc nón bài thơ - Xa Hội An - Cách học cho giỏi - Lời cuối - Gặp lại nhau - Ba thế hệ đậuTiến Sĩ Mục Lục: Trần Trung Đạo - Lời Ngỏ - Vài nét về Chùa Viên Giác - Thời thơ ấu ở Duy Xuyên - Đến Chùa Viên Giác lần đầu - Rời Chùa Viên Giác đến Vĩnh Điện - Trở lại Chùa Viên Giác - Sư Phụ, Cố Đại Lão Hòa Thượng Long Trí - Tưởng nhớ Bổn Sư Thích Như Vạn - Tưởng nhớ HT Thích Tâm Thanh - Phố cô Hội An và những ngôi trường cũ - Hãy ngủ yên Đà Nẵng của tôi - Vu Lan nghĩ về Mẹ và Quê Hương
01/04/2013(Xem: 14759)
101 câu chuyện Thiền - Trần Trúc Lâm dịch
01/04/2013(Xem: 3131)
Túi vải đã sẵn trên vai, gã nhìn quanh căn phòng tạm trú, với tay, lấy chiếc mũ nỉ trong tủ áo, chụp lên đầu rồi khép cửa, bước ra đường.
29/03/2013(Xem: 4099)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]