Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại Sao Tôi Đi Tu ?

21/08/201706:57(Xem: 3503)
Tại Sao Tôi Đi Tu ?

Tai Sao Toi Di Tu_Thich Tu Luc

 

 

TẠI SAO TÔI ĐI TU?

của Thích Từ Lực & Trần Mạnh Toàn

chùa Phổ Từ, 2008

Trình bày: Focus Print n Copy, San Jose

 

MỤC LỤC

Lời Ngỏ

PHẦN I

Tại Sao Tôi Đi Tu – Thích Từ Lực

PHẦN II

Tản Mạn Với Thầy - Trần Mạnh Toàn

Chột Nu Một Tiếng

Bóng Điệu Pha

Bên Kia Biển

Tuổi Điệu Sáu

            Chuyện Người Giới Tử Khôi Nguyên

            Dấu Chân Qua

PHẦN III:

            Chương Trình Đào Tạo Tăng Ni

            Việt Nam Tại Hoa Kỳ

PHẦN IV:

            Hình Ảnh Lưu Niệm

TỪ BA CAO ĐIỂM

(viết thay Lời Ngỏ)

Trường Sơn

Biêng biếc rừng xanh miền sơn cước

Nắng chiều thua sắc lá biên cương

Kéo cao cổ áo bên triền đá

Bát ngát rừng mây buồn viễn phương

Biên tái chiều sương buồn chất ngất

Nhớ nhà ta như dại như ngây

Nghĩ đến ngày về quê quán cũ

Thân này da ngựa có bọc thây?

(Trường Sơn Xuân Quạnh Đồn Biên Giới,

Thơ Lê Nguyên Ngữ, 1972)

Khu vực quanh Động Cù Mông như một vết thương lở lói của thiên nhiên giữa rừng sâu. Bom đào thành hố sâu phơi trần từng lớp đất vàng nâu còn tươi hệt như xác một sinh vật bị mãnh thú ăn dở. Cao điểm này từng là nơi bị chiếm đi giành lại nhiều lần nên trông tựa như vừa trải qua  nhiều cơn lốc kinh thiên. Những trận cuồng phong dị thường để lại mùi khét của diêm sinh và thuốc súng trên từng gốc cây, cụm cỏ còn sót lại. Cỏ úa vàng hơn ánh chiều tà đang xuống thấp. Cây lớn còn đứng vững được sau chấn động và hơi bom thì chịu sự phạt ngang của mảnh kim loại. Cây cụt nửa thân rải rác trên đồi cao chơ vơ giữa vùng nặng uất khí và sát khí như tội nhân chờ hành quyết. Đôi cây còn sót bên sườn đồi mang bên mình những cành lớn bị mảnh cắt gần lìa, như kẻ lâm chiến bị trọng thương còn đủ sức ngước lên trách móc. Anh giao vị trí cho người bạn hạ phiên, uể oải bước xuống chân đồi sau khi nhìn lại thứ vũ khí mới vừa bàn giao, đến với anh như một chút tin cậy để còn tồn tại. Giữa chốn hiu quạnh nhưng đầy bất trắc này, anh chợt cảm thấy, vật gây thương vong cho người lại trở thành chỗ dựa để mọi người trông cậy. Vật có sức tàn phá cao vàng khiến anh và các bạn thêm yên dạ. Lần này, vật hộ thân cho đơn vị anh là thứ tân chế có thể biến chiến xa thành một khối thép vô dụng nhưng anh chưa có dịp thử lần nào.

Anh châm tiếp điếu Bastos còn sót, vo tròn bao thuốc ném ra xa, đưa tay lên ngực áo như tìm kiếm. Anh hài lòng khi biết bao thuốc nguyên, khẩu phần cho những giờ khắc còn lại trong ngày, còn trong túi áo. Khói thuốc là thứ thân thiết của anh từ khi chưa nhập ngũ, giờ đây, anh muốn gắn bó thêm với  nó.

Thường ngày, cảm giác của người bị phong tỏa, rình rập và đe dọa từng giây từng phút khiến anh thấy như quên mất con người riêng của mình. Nỗi buồn, vui, rung động trước ngọn gió cuối năm như đã xa rời anh. Tiếng súng và trọng pháo vắng hẳn trong buổi chiều hưu chiến. Anh không nghĩ có thể tạm quên được sự nguy hiểm, báo động thường xuyên nhưng sự vắng lặng của chiều cuối năm khiến cho những xúc động trong lòng dậy lên như âm binh được điều động. Ngọn gió nơi chân đồi bỗng làm anh thấy gờn gợn đôi tay trần. Ngọn gió y hệt như lúc vi vu bên hàng chè trước nhà vào chiều ba mươi tết, lúc mà anh giúp mẹ đặt nồi bánh chưng lên bếp lửa. “Tết ni được no rồi.” Bấy giờ, anh chẳng để ý để hiểu hết câu nói của mẹ, vừa nói, đôi tay chai sạn vừa đẩy mấy gộc tre vào lòng bếp.

Anh mân mê chiếc bùa bạch y xâu trong dây thẻ bài. Lớp ny-lông bọc chiếc bùa hộ thân nhuốm mồ hôi đã ố vàng. Trước hôm lên đường, mạ dặn đi dặn lại không được rời chiếc bùa và nhớ niệm chú khi gặp nguy khốn.

Ở cao điểm nơi biên trấn vào chiều cuối  năm khiến anh nhận ra một điều. Thường ngày bọn anh như bị phong tỏa trong rừng bằng rình rập và đe dọa, chiều nay, lại thêm sự cô quạnh bao vây. Đồng ngũ bên cạnh, vũ khí trong tay giúp anh yên dạ, bớt lo âu. Chiếc bùa, câu niệm chú đem lại niềm tin thoát hiểm. Còn cô quạnh thì vô phương giải tỏa. Cô quạnh như tấm vải liệm làm cách biệt anh với thế giới của anh. Sự có mặt dù ồn ào của đồng ngũ cũng không kéo anh về được thế giới mà anh tìm kiếm.

Anh ném tàn thuốc xuống chân mà không châm điếu mới như thói quen. “Ai muốn nghe Xuân Này Con Không Về thì cho Long đất cái bì thư”, tiếng người bạn giỡn hớt vang một góc rừng. Lần này, anh không chau mày trước câu đùa nghịch của bạn mà chỉ bước vội tìm một chỗ để đặt tấm giấy viết thư.

Kim Sơn

Trước mắt người thanh  niên tăng, Kim Sơn là cánh cửa mở ra chân trời cao rộng của con đường xuất gia ngay từ buổi chiều đặt chân đến. Từ ô cửa sổ của Từ Quang nơi thành phố Cựu Kim Sơn, tương tự như từ ngôi chùa hội ở quê nhà, đôi mắt người học tăng, nhiều lắm là trong ngày đẹp trời, thấy được mảng trời xanh và làn mây trắng lững lờ ngoài khung cửa. Buổi chiều nơi Kim Sơn, người thanh niên tăng không cần phải tưởng tượng nữa. Chú có thể sống thực với mình, với thiên nhiên, với muôn loài sinh vật tưởng như hồn nhiên chung quanh. Ở Kim Sơn, chú đã xa rời được những điều gọi là ý niệm, nghĩa lý được thiết lập trên tờ kinh, trang sách.

Một buổi sớm cuối xuân, sau buổi công phu sớm, mở rộng khuôn cửa sổ phòng, chú bắt gặp tâm hồn mình như bừng nở theo đóa hoa mộc lan (magnolia) ở trước sân. Cánh hoa trắng và hương thơm tinh khiết như biểu hiện của một thực tại vừa ra đời và được chứng ngộ. Bản lai nó không phải là đóa hoa dù lộng lẫy hơn tìm thấy trong bình, trong chậu hay trong mảnh vườn nhỏ của Từ Quang. Nâng đóa hoa trên tay, chú thấy những rung động của sự khám phá. Không phải cái cảm giác dù thanh tao của sự thưởng thức, thụ hưởng cái đẹp. Thực tại đang có mặt ở đây và nhiệm vụ của một học tăng như chú là góp một phần tuy thật khiêm tốn nhưng thiết thực vào việc làm tốt đẹp cái thực tại đã nhận thức được. Chuyện rẫy vạt cỏ quanh nhà, dọn dẹp căn nhà vốn đơn sơ để có thể làm nơi nghỉ chân vào ngày cuối tuần, với chú đã nới rộng thêm ý nghĩa. Ý thức về thực tại mở đường cho dự phóng của thanh xuân. Dự thảo cho một Cơ sở nghiên cứu và thực hành thiền để phù hợp với xu hướng thiên về lý trí của xứ người, nỗ lực kiến tạo một cơ sở tôn giáo và kế hoạch đào tạo chúng xuất gia để cung ứng cho nhu cầu hành đạo, tất cả xem ra đều nằm trong tiến trình của nhận thức, là dư hương của đóa hoa nhận thức năm nào.

Tối Kim Sơn nghe tiếng nai kêu trăng khắc khoải, người tăng sinh thấy được sự sống hiện diện bên mình, quanh mình, như nhắc nhở rằng thực tại cũng là một sinh lực cần được nuôi dưỡng.

Linh Sơn

Địa điểm mang tên ngọn núi thiêng này chỉ là một cao điểm của tâm linh khi người sa di có dịp đến với lòng của người hành hương tại một ngôi chùa trên đất Pháp. Linh Sơn hay Linh Thứu Sơn đôi khi cũng thể hiện chút tự hào trong ước vọng của người đi sau muốn thừa kế một danh xưng. Người sa di lại muốn mang theo bước chân viễn du thứ nhất của mình ngoài tâm trạng người du tử, người khách trọ của mọi điểm dừng chân, cơ hội để đ     ạo lực thêm kiên cố.

Đạo phong truyền thống được dựng dậy tại chốn thiền môn như Linh Sơn có thể là điểm tựa tâm linh vững chãi cho người sa di trước khi có thể một mình tiếp tục lên đường. Chú lưu lại lâu hơn nơi chánh điện sau buổi tụng sám, một mình bước đến gần khung cửa sổ mở ra trời cao.

Đêm Paris vằng vặc ánh sao giống như một đêm trên đỉnh Cù Mông năm xưa. Nhưng đêm ấy, trên đồi cao, gió lộng không xua được hiểm nguy và chết chóc vây quanh, nhìn mặt đất và nội cỏ sáng lên dưới ánh trăng, người thanh niên không thấy điều gì nhen nhóm trong lòng ngoại trừ sự mừng thầm sẽ gặp an toàn trong phiên gác lúc nửa đêm.

Đêm Linh Sơn tại Paris, người sa di đã bước gần trọn bước đường tiến tới đại nguyện. Người xuất gia ngoảnh về ngọn đồi chiến lược Đông Cù Mông năm xưa như nhìn lại mớ tóc xanh rời mình vào  ngày thí phát. Nghiệp dĩ không còn cơ hội phong tỏa nhận thức người như kẻ tù nhân của hoàn cảnh, của định mệnh.

Đêm ấy, trời sao Linh Sơn vằng vặc trong lòng.

Tháng cuối thu 2008.

Thích Từ Lực & Trần Mạnh Toàn

PHẦN I

Tại Sao Tôi Đi Tu?

Thú thật khi chưa quyết định tìm câu trả lời, tôi nghĩ giải đáp câu hỏi không mấy khó khăn nhưng khi đặt bút viết xong nhan đề thì mới nhận ra câu hỏi thì đơn giản nhưng chẳng dễ với người đáp và cũng khó làm người nghe hoàn toàn vừa ý. Thế mới biết đời mình chắc đã trải qua không ít lầm lẫn trong việc nhận xét hay đánh giá. Tôi tự nhận đây là điển hình một trong những suy  nghĩ ban đầu thiếu chính xác của mình trước khi làm gan trả lời câu hỏi bạn đã nêu ra với tôi từ… mười năm trước!

Vâng, dạo đó, nhiều lần, bạn cứ khẩn khoản muốn biết tại sao tôi đi tu. Đi tu có gì “special” không? Chắc phải có duyên cớ gì thầm kín lắm thúc đẩy xuất gia? Ôi thôi có đến sang năm tôi mới nhớ hết những thắc mắc bạn đã nêu lên. Tôi nhớ, dạo đó tôi chỉ cười cười vì không biết trả lời thế nào cho phải. Nói mình không biết diễn đạt ra sao thì lại ngại bạn chê tôi quê – đi tu mà không biết chi cả. Thành thử, tôi đã áp dụng nghiêm chỉnh cách xử thế của người xưa: biết thì thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Và tôi chỉ lắng tai nghe bạn lặp đi lặp lại câu hỏi đó, không chừng có đến mấy chục lần. Tuy vậy, tôi lấy làm lạ bạn à. Cùng một câu hỏi, thế sao mỗi lần nghe in tuồng có cái gì khác khác ở trong. Lần đầu, nghe bạn hỏi, tôi cho rằng bạn muốn “chọc quê” tôi. Rồi cái hôm đi thăm bảo tàng viện ở Nữu Ước, cũng câu hỏi đó, nhưng kèm theo ánh mắt đăm chiêu  của bạn, thì tôi lại cho rằng bạn hơi serious, muốn biết chuyện người lớn. Rồi  mới hôm nào đây bạn nhắc lại “món nợ” và đòi tôi trả lời câu hỏi xưa gần bằng trái đất, lần đó, tôi cho rằng, bạn thật tình muốn biết tại sao tôi đi tu.

À ha, thì ra bạn cũng ghê thiệt. Nhớ dai quá đi. Tại sao tôi đi tu thì chuyện đó có liên quan gì đến bạn đâu mà bạn để tâm chi cho mệt. Tôi biết rồi, hay bạn cũng như hàng chục người mà tôi đã gặp, hỏi vậy là để thỏa mãn tính tò mò? Nhưng bạn đã nhiều lần đưa ra câu hỏi trên với tôi thì chắc là phải khác với việc muốn biết thêm một chút đời tư của tôi cho vui. Do vậy, mà tôi hơi cảm kích đó bạn à. Cảm kích vì biết rằng, trên đời này còn có ít nhất là một người thường quan tâm đến cuộc đời tu hành của mình. Tôi thường tự an ủi, mình làm việc gì mà có ĐƯỢC  một người hiểu mình thì kể như quá đủ. Rồi từ chỗ cảm kích, tôi có tâm niệm biết ơn bạn. Nhờ bạn, mà mỗi lần đọc thầm bài thơ sau thấy lòng mình thanh thản hơn người xưa

Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Kỳ vị sanh tử sự

Giáo hóa độ xuân thu

Có người tạm dịch là:

Bình bát cơm ngàn nhà

Thân chơi muôn dặm xa

Chỉ vì đời sanh tử

Giáo hóa tháng ngày qua

bỗng chốc nỗi ray rứt của người “cô thân” nơi “vạn lý” không còn ám ảnh kẻ đơn độc như tôi nữa. Vì tôi, có bạn, có những người bạn khác cùng tâm huyết thì sao mà “cô thân” được, phải không bạn?

Nhưng bạn biết không, cảm kích bạn chưa phải là lý do duy nhất khiến tôi buộc lòng phải “lên tiếng” đâu. Lý do chính là vì tôi… nhát gan, sợ phải mắc nợ đời, dù chỉ là một câu trả lời. Chết rồi! Ai đời lại dại dột thú nhận điều bí mật lớn lao của mình như thế này, hỡi thiên địa! Cứ cho là bạn thắng một bàn. Cũng tại Sư ông N.H. hết, có dịp tôi sẽ “bắt đền” Sư ông!

Thầy giảng rằng, mình đi tu rồi thì phải cố xả bỏ cho hết những tâm niệm tham luyến đối với thế gian. Có vậy mới giải thoát được. Chứ còn bám víu vào những tâm niệm thường tình thì khó mà ra khỏi tam giới. Rồi Thầy còn nhấn mạnh thêm: phải bỏ hết, dù đó là phước, là đức, là công lao xây dựng thiện nghiệp, vì tất cả đều là huyễn tướng. Nghe như kinh Kim Cang bạn há. Đúng rồi, trong kinh có dạy: chánh pháp còn phải bỏ huống hồ phi pháp. Mọi chuyện xảy ra ở thế giới hiện tượng này đều do duyên mà thành thì sớm muộn gì cũng do duyên mà ly tán. Cho nên phải bỏ hết thì tâm mới được thong dong.

Dạo ấy, nghe xong, tôi về nhà nằm gác tay lên trán suy nghĩ. Suy nghĩ dữ lắm. Tôi tự hỏi, không biết câu hỏi người khác đặt cho mình, nếu mình không trả lời thì mình có mắc nợ họ không. Cái đầu tôi bèn trả lời: có chứ sao không. Có là vì có câu hỏi tức là có câu trả lời. Chà, cái đầu tôi lúc này bày đặt lên giọng triết lý dữ a! Nhưng nghe cũng được, hơi có lý phần nào. Lúc nào mà mình còn có tâm niệm nghĩ về câu hỏi, tức thì câu trả lời cùng lúc sanh khởi, phải vậy không? Do đó, cuối cùng, tôi quyết định trả lời bạn “quách” cho rồi, chứ không lại mắc nợ thì khổ tấm thân… 98 pounds này.

Như vậy kể như yên phần đầu. Bạn biết tính tôi mà, chuyện gì đã quyết định thì trước sau gì tôi cũng cố làm cho được, hay ít ra phải thử sức năm lần bảy lượt trước khi tuyên bố… không làm nữa. Thưa bạn, đây là câu trả lời rất chân thành của tôi.

Để bắt đầu, tôi không thể không kể cho bạn nghe chuyện chú  điệu Pha, người đã đặt vào trí non nớt của tôi thuở thiếu thời, hình ảnh một người xuất gia đáng mến.

Tôi gặp Chú vào một buổi chiều tan học. Năm ấy, tôi lên mười, đang học lớp ba trường làng. Chú thật hiền. Nhìn Chú, thấy Chú cười là tôi chợt cảm thấy điều gì vui bừng nở trong lòng. Sở dĩ tôi còn nhớ Chú cho đến bây giờ là vì hai lý do: thứ nhất, đích thực Chú là một người tu hiền lành, dễ thương; hai nữa, suốt bốn mùa tám tiết của trời đất, tôi thường bị một “thằng anh trời đánh” con ông bác hay ăn hiếp, bù lại chú Pha lại thương tôi, hay cho tôi kẹo bánh. Tôi phải thường xuyên lãnh nhận hai cách đối xử tương phản như trên trong mấy năm thơ ấu. Khi lớn lên, học những bài học đạo đức trong sách Minh Tâm Bửu Giám do ba tôi dạy, tôi đã tìm được sự chọn lựa: muốn sống trọn đời với điều hay lẽ phải thì có lẽ nên chọn con đường của chú điệu Pha, người mà tôi hết lòng quý mến.

Tôi phải kể cho bạn nghe thêm chuyện về chú Pha mới được. Quê Chú ở làng Tân Tô, bạn à. Làng đó cách phi trường Phú Bài khoảng hai cây số. Nhưng Chú lại tu ở chùa Vạn Phước làng tôi.  Nói là làm điệu ở chùa nhưng thật sự Chú chỉ lên chùa khi có việc, còn thì Chú vẫn sống với ba má Chú ở tại Tân Tô, hay ở đâu tôi không rõ lắm. Mỗi lần lên chùa Vạn Phước thì Chú phải đi xe đạp mất hơn giờ đồng hồ. Hôm đầu tiên gặp Chú là lúc Chú dắt chiếc xe đạp qua một mương nước trong xóm tôi. Từ xóm tôi, Chú phải băng qua một cồn cát, nóng ơi là nóng, trước khi vào cổng chùa Vạn Phước nằm cạnh một con hói, tiếng quê tôi gọi một nhánh sông nhỏ.

Chú mặc áo nhật bình màu lam, đầu đội nón lá, chân đi săng đan. Tôi không nhớ Chú có mang mắt kiếng hay không. Nếu có thì Chú có vẻ mô phạm nữa đó. Mà thật ra, dù không có mang mắt kiếng thì Chú trông cũng đạo mạo lắm rồi, bạn à. Tôi thích nhất là nụ cười của Chú. Ui chao, hiền ơi là hiền. Khác hẳn “thằng anh” con ông bác của tôi. Nó nhỏ hơn tôi hai tuổi, vậy mà nó mạnh gớm. Lần nào đánh lộn, nó cũng hơn tôi, mặc sức đấm, đá và vật tôi xuống đất. Không bao giờ nó cười với tôi, nếu có chăng, cái cười của nó không thể nào “đẹp” như nụ cười của chú Pha.

Chú thương tôi rất mực. Không biết vì sao mà lần nào tôi đến chùa Vạn Phước thì Chú đều dành phần quà hậu hĩnh cho tôi. Như phát chuối, thì tôi được hai trái, trong khi mấy đứa khác chỉ được một trái. Thỉnh thoảng, Chú còn cho phép tôi lau dọn bàn thờ Phật với Chú nữa. Oai lắm chứ, bạn ha. Mới hơn mười tuổi mà đã được làm “Phật sự” rồi đó! Tôi nhớ nhất là hình Phật Di Đà uy nghi lộng lẫy nơi chánh điện. Sau này, tôi mới biết rõ, đó là hình Ngài đứng trên tòa sen tiếp dẫn, đặt trong khung có gắn đèn phía sau, trông trang nghiêm, sáng rỡ như hình Phật mà Thầy Thiện T. thiết lập ở chùa Từ Quang. Mỗi lần xong việc trong chánh điện, Chú lại dắt tôi ra giếng bảo rửa ly tách và đôi lúc xách nước tưới hoa. Vui khi được làm việc chung với chú Pha, tôi cứ mong tuần tới Chú lại lên chùa, với chiếc áo nhật bình, với chiếc xe đạp, và tôi được Chú cho xôi, cho chuối.

Thời gian làm việc chùa theo kiểu “vô công dụng hạnh” của thiền môn đó chỉ kéo dài chừng hai năm. Sau khi học xong Tiểu Học, tôi lên trọ học ở Huế, học bậc Trung Học. Tuy có về thăm nhà mỗi tháng một lần, tôi không gặp lại chú Pha nữa. Chú đã thọ giới Cụ Túc, được bổ đi làm việc ở một ngôi chùa khác ở Tỉnh Hội? Hay Chú trôi dạt đến một vùng đất khác? Ở cái tuổi mười hai, mười ba, tôi thật tình không biết hay tưởng tượng việc gì xảy ra cho Chú. Có điều, hình bóng người xuất gia trẻ tuổi hiền từ, vui vẻ, giản dị lưu lại mãi trong lòng tôi như một phần tâm hồn tôi, trong đó có cả chiếc áo nhật bình người thường bận!

Để tôi làm oai giảng cho bạn nghe về hai chữ “nhật bình”, cái tên đầy ý nghĩa của chiếc áo nhà tu. Này người bạn thân của tôi, tên của tấm áo thể hiện sự khác biệt trong quan niệm sống và thái độ xử thế giữa cuộc sống thế tục và đời sống của người xuất gia. Nhật bình nghĩa là giữ tâm bình lặng, không dao động trong đời sống hàng ngày. Và phải duy trì được thường xuyên và thường nhật mới đúng ý nghĩa, bạn à. Chứ không thể gián đoạn, tùy lúc, tùy hứng. Đời sống của người tu tiếp nối từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác trong tâm trạng bình an. Đành rằng, cuộc đời có lắm trái ngang, đau khổ, đôi lúc người tu cũng phải chịu chung cộng nghiệp mà bị vướng vào vòng lẩn quẩn khó tránh của thế gian. Tuy nhiên, khi xúc sự và đối mặt với phiền não, người tu vẫn có cách xử sự khác với người thế gian. Lấy ví dụ, cùng đi vượt biên, cùng ở trong cảnh sóng gió hãi hùng, cùng ở trong hoàn cảnh bất trắc như nhau nhưng người có đạo lực thì giữ được bình tĩnh, làm những điều gì có thể làm được để trấn an mọi người. Chứ không phải khi gặp sóng to gió lớn thì lo sợ cuống cuồng, đôi lúc còn để cho sự nóng nảy, buồn phiền đốt cháy thân tâm.

Thí dụ trên cho phép ta hiểu ý nghĩa chiếc áo mà người xuất gia được phép mặc trên mình cũng như nỗ lực thường xuyên đòi hỏi người tu cần đạt tới. Chiếc áo nhật bình như thế, mượn danh một y phục che thân mà thực ra là đòi hỏi người mặc nó, công phu tu dưỡng cá nhân thường xuyên và khả năng đối phó với thử thách từ ngoại giới. Gặp bạo lực, ta giữ tâm thương tưởng. Bị hiểu lầm, mình lấy sự bao dung, tha thứ làm phương châm hành động. Còn khi có sự tranh chấp thì người tu giữ tâm bình thản, đặt ngoài tai mọi sự phân biệt, khen chê.

Tôi thường nghe người ta nói: chiếc áo không làm nên ông thầy tu. Tôi đồng ý với nhận xét đó. Nhưng trái lại, nếu người tu mà không có chiếc áo “nhật bình” thì xem như thiếu đi một biểu tượng cho một đức tính mà người xuất gia cần biểu lộ và phát huy. Nên, biểu trưng đó - chiếc áo nhật bình – dù còn mới hay đã sờn vai rách tà, vẫn là vật bất khả ly thân của người tu. Và quan trọng hơn, nếu “tinh thần nhật bình” không còn tồn tại trong chiếc áo trên thì thật là không may cho người mang nó trên mình và cũng là điều thiệt thòi cho những người tin tưởng vào chiếc áo.

Bạn ơi, bạn cho phép tôi trở về câu chuyện trước.

Bây giờ, đã hơn bốn mươi năm trôi qua, ngồi ghi lại hình ảnh chú Pha mà tôi không cầm được nước mắt bạn à. Không ngờ, mới  ngày nào còn là đứa bé lên chùa chỉ thích xôi, thích chuối, thích chơi đùa, mà giờ đây lại thành người có duyên ở luôn trong chùa. Chú Pha mà biết được tôi đi tu, chắc Chú “không ngờ” được cũng như bạn đã… không ngờ!

Không biết ngôi chùa Vạn Phước ở làng tôi bây giờ có còn người lui tới. Tôi nhớ Thầy Trụ Trì là người bán thế xuất gia, lúc trước, có đem một đứa cháu ngoại cho ở chùa, làm Điệu. Sau này, em đó có tiếp tục nối được bước Thầy, lo hương khói cho chùa không?

Kỷ niệm xưa về ngôi chùa tràn ngập trong trí tôi hơn bao giờ. Tôi còn nhớ, bên trái chùa là một con sông nhỏ. Trước mặt chùa là khu vườn là nơi tôi thường ra hái bông trang, chạy nhảy đùa nghịch.

Một hôm, bị “thằng anh” trời đánh rượt, bị té trợt đầu gối. Chú Pha ở đâu sau chùa, nghe tiếng tôi la, chạy ra ngăn và lấy vải rịt chỗ trầy sướt. Hôm đó, tôi chợt mủi lòng và nhận ra tình thương dành cho tha nhân của một người xuất gia, rồi thầm nhủ trong lòng: đừng bao giờ ăn hiếp người khác.

Đến đây, chắc bạn đã “ngộ” ra được đầu mối đưa tôi đến với cửa chùa phải không? Khởi đầu vỏn vẹn là chút kỷ niệm với người tu hành thiếu niên hiền lành, yêu thương mình, gần như một trong những chỗ dựa về tình cảm thuở thiếu thời; việc ấy phải được xem là một trong những thiện duyên ban đầu đưa dẫn tôi từng bước vào con đường đạo lúc nào không hay. Rồi sau, tùy duyên, tùy nghiệp, mình bước tới phía trước, mạnh dạn và chủ động hơn lúc đầu. Riêng tôi, chú Pha quả thật phù hợp với biểu tượng của chiếc cầu giúp tôi và thúc đẩy tôi bước lên để băng qua dòng sinh tử. Không biết Bồ tát Trì Địa, Ngài thường bắt cầu gì hè? Cho ai hè?

Ngó bộ bạn không hài lòng mấy câu về trả lời của tôi. Sao việc “trọng đại” quyết định thân phận và tương lai cá nhân như việc xuất gia đầu Phật mà lại chỉ được thúc đẩy từ mấy nguyên do đơn giản như vậy sao? Chắc phải có động lực “thầm kín” đáng nói hơn chớ! Bạn muốn tôi “cung khai” thêm, riêng tôi, tôi chẳng có ý định giấu giếm. Thì cũng được, trên đời này, bạn biết rồi mà, có chuyện gì mà có thể hiện hữu đơn độc đâu. Yếu tố này thêm yếu tố kia, kết hợp lại với nhau mới thành sự việc. Hình ảnh chú Pha là một chánh duyên ban đầu, để rồi sau đó, duyên nọ tiếp duyên kia dần dà kết thành cái biệt nghiệp của một ông thầy tu thích nghe tân cổ nhạc, hảo vị ngọt và ưa làm bạn với lối sống lang bạt.

Nắng chiều tràn qua khung cửa sổ, tạt một vạt nắng lên bức tường khiến tôi chợt nhận ra bức hình đen trắng của ông Krishnamurti năm nào đã ngả màu. Hương vị chocolate hiệu Snickers như đưa khoan khoái thấm vào từng kẽ răng. Bạn biết gì không, tôi đang nhẹ nhàng nhắm mắt để làm dịu tia nắng, tâm hồn mình như mở rộng thêm và thấy điều gì gần như là hạnh phúc bừng dậy trong lòng. Đó, cũng vì chút đó mà tôi đi tu. Bạn chưa tin à?

Bạn ơi,

Đọc thư bạn với  nhiều cảm động đó, bạn à. Dễ gì mà thoát khỏi cặp mắt sắc sảo của người công dân Bến Ngự như bạn, chưa kể lời “hăm dọa khám phá” thực hư điều tôi đã “cung khai.” Kể ra nói thế không quá đáng vì trong gần tám trang giấy viết thư, bạn đã khéo léo cật vấn về thân thế, ráng tìm cho ra sơ hở trong câu trả lời của tôi, để rồi bạn chỉ “giáng” cho lời “cảnh cáo” như trên thì thật ra, bạn còn nương tay lắm, bạn vàng à! Chung quy, bạn vẫn chưa tin một cách rốt ráo, hoàn toàn điều tôi đã nói. Sao chuyện đi tu lại có thể “khởi động” đơn giản như vậy được. Giản dị như việc bạn đặt bút chấm câu sau khi đã nhíu mày vì cạn ý!

Thôi thì, tôi cũng chìu bạn lần nữa. Để tôi cố nhớ lại xem, ngoài hình ảnh chú Pha còn có gì nữa không. À, chắc là có. Tuồng như đêm đó tôi khóc thật nhiều, dù chỉ khóc một lần thôi trong sáu tháng trời ở trại tỵ nạn khi nhớ đến cha mẹ, anh em. Bạn đừng cười về tính mềm yếu của tôi nhe, lúc đó tôi chưa đi… tu mà.

Khi ấy là một ngày đầu tháng 5 năm 1975.

Giựt mình tỉnh giấc, tôi dụi mắt và mơ màng không biết mình đang ở đâu. Khung cảnh chung quanh lạ hoắc, toàn một màu trắng với giường sắt, nệm bông, khác hẳn tháng trước, tôi còn nằm trong lô cốt cạnh giao thông hào, với bao cát chất cao, với ngọn đèn mờ mờ không thấy rõ bàn tay. Phải một lúc sau, tâm trí của tôi mới làm việc trở lại và tôi nhớ ra là mình đang ở trại tỵ nạn Ft. Chaffee thuộc tiểu bang Arkansas của nước Mỹ. Ôi! Nghìn trùng cách trở rồi!

Và tôi bắt đầu khóc. Ban đầu, tôi chỉ khóc thầm thôi vì ngại đánh thức anh Lập, bác Vận bên cạnh đang ngủ ngon. Từng giọt nước mắt chảy ra, lăn dài trên má, ướt đẫm cả chiếc gối, thấm vào môi thấy mằn mặn. Tôi để mặc cho cảm xúc tuôn trào. Nghĩ về ba mẹ tôi đang ở bên kia bờ Thái Bình, cả một đại dương cách trở, tôi càng tủi thân và nước mắt ứa ra, không kềm chế nổi. Tôi khóc lớn, không kể gì nữa cả!

Có lẽ tôi phải giải thích cho bạn biết tại sao. Mới chiều hôm trước, khi nhìn tấm bản đồ ở văn phòng hội Hồng Thập Tự, định được vị trí của mình đang đứng và xứ Huế xa xăm, tôi đã ngậm ngùi.

Huống hồ, ý thức hệ của hai bên hoàn toàn chống đối nhau thì ngày về kể như không bao giờ có được. Bên này, tôi chỉ một thân một mình, còn ba mẹ tôi đang ở bên kia. Ai từng nói, tử biệt đã là một nỗi đau khổ lớn của kiếp người, thì chuyện sinh ly cũng làm mình khổ đau không kém. Nghĩ đến đó, lòng bỗng chùng xuống.

Một mình đếm bước về phòng, tôi viết dòng chữ dưới đây vào quyển sổ tay: trời ơi! mất hết rồi. Hệt như tiếng kêu bi thương của một con nhạn lạc đàn. Quả thật, tôi mất hết rồi, bạn ơi, vì không có ba mẹ thì tôi sống để làm gì, cuộc sống còn có ý nghĩa gì?

Từ nhỏ, tôi đã được dạy dỗ là phải hiếu thảo với cha mẹ. Câu nói “trai trời trung hiếu làm đầu” như một câu kinh nhật tụng mà tôi trì tụng hàng ngày. Rồi lớn lên, dù có khi lang thang xóm trên làng dưới hoặc đóng quân giữa núi rừng, tôi vẫn mang trong lòng một tâm niệm thiết tha, đó là phụng dưỡng cha mẹ cho trọn đạo làm con. Thế mà, biến động xảy ra làm cho tôi lạc mất gia đình. Mất gia đình thì làm sao tôi có thể gần gũi để phụng dưỡng hai đấng sanh thành? Tôi suy nghĩ như vậy mà thấy tuyệt vọng vô cùng. Vì vậy, tôi khóc.

Tôi khóc sướt mướt như cha chết, mẹ chết. Có lúc tôi nắm chặt song sắt của chiếc giường và muốn bẻ gãy nó ngay! Bao nhiêu tủi cực trong lòng, dồn nén từ hơn hai tháng trước có dịp tuôn trào ra khỏi “hai cửa sổ tâm hồn” của tôi. Ngày mất Huế, tôi theo đơn vị, cứ một mạch đi về phía Nam. Tâm trí bận rộn với chuyện thoát hiểm, nên chẳng có lúc  nào nghĩ đến gia đình. Đến bây giờ, đã bình an trên xứ người nên nhớ thương, tiếc nuối bỗng trào dâng lên.

Khóc đến độ mệt lả người, tôi thiếp đi khi nào không hay. Nhưng cũng từ đó, tôi bắt đầu tìm hiểu đạo Phật và ước mong tìm ra câu giải đáp: vì sao tôi không thể kề cận, nuôi dưỡng ba mẹ tôi dù tôi rất muốn? Điều tôi mong ước có gây thiệt thòi hay đau buồn cho ai đâu? Tôi chỉ muốn làm người con hiếu thảo, vậy mà cũng không được. Nói ra, bạn cũng đừng chê tôi, chứ vào thời điểm bấy giờ tôi chưa hiểu gì về giáo lý vô thường cả.

Cho đến hơn một năm sau, khi đã được đọc một số sách nói về đạo Phật, cùng lúc đó có đôi chút thực tập, tôi mới nhận ra: quả thật, cuộc đời của con người bất định và mỏng manh. Có những cái mình tưởng nắm vững không rời, những mong ước mình tưởng là có thể thực hiện trong tầm tay, vậy mà, chỉ trong thời gian thật ngắn, cái sở hữu không còn mà điều mong ước cũng tan tành trong khói lửa.

Ý tưởng báo hiếu, đền ơn cha mẹ cứ lảng vảng trong tâm trí tôi. Tôi cho rằng, nếu không làm được điều trên thì cuộc đời mình thiếu sót một bổn phận rất lớn. Cho đến một hôm…

Bạn đừng tưởng là tôi… hoát nhiên đại ngộ dưới chân cầu Golden Gate! Không, suốt hai năm đầu tiên, tôi đi học Anh Văn và làm thêm việc quét dọn trường để kiếm sống. May mắn tôi biết thư viện của đại học Berkeley có một section sách tiếng Việt, tôi mừng như bắt được vàng. Sáng đi học, chiều đọc sách, đời sống tâm linh của tôi từ từ có sự biến chuyển. Tôi tình cờ bắt gặp trong thơ sự giãi bày về lẽ vô thường của cuộc đời

Cuộc thế mơ màng giấc lợi danh

Được thua gì cũng chốn mê thành

Ruộng dâu muôn đám hườn thương hải

Lầu tía ngàn căn biến lộ hành

Tóc bạc bao giờ thay tuổi trẻ

Da dùn há dễ trở mày xanh

Trò đời nghĩ lại, chao ôi, ngán!

Cửa Phật chi bằng pháp bất sanh.

Pháp bất sanh của nhà Phật, có đúng là như vậy chăng? Nhiều đêm tôi vật lộn với những ý nghĩ mâu thuẫn. Hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, cơn suy tư tiếp diễn trong đầu óc người thanh niên xa nhà. Cái gì mới là sự thật? Có thật cuộc đời là vô thường? Bây giờ mình khỏe thế này, đến khi bệnh hoạn, thân xác mình sẽ còm cõi, tiêu ma? Nghĩ đến thế, tôi cố đánh lừa chính mình, bạn à. Bậy nào, chỉ có lúc mình đi lính, đánh giặc mới bị thương vong. Chứ bây giờ đang ở Mỹ, mình làm gì mà thân thể bị tổn hại, huống hồ bạn bè đã thường gọi mình là “Long đất”, nghĩa là hiền như cục đất, ai thèm đánh lộn với mình mà sợ. Chắc là họ nói vậy để dọa thiên hạ thôi! Tôi dám nghĩ như vậy đó, bạn à. Sau này xét lại mới thấy mình lầm, chút nữa là bị Bụt phạt quỳ hương rồi. Nhưng cũng may, một hôm đọc một tập giáo lý mỏng do Trang Nghiêm cư sĩ biên soạn, có đoạn nhắc đến sự phù du, ngắn ngủi của kiếp người.

Hơn sáu mươi năm

Thoáng dường xuân mộng

Tỉnh ra thôi một giấc hoàng lương!

Phù hoa bóng huyễn

Có mấy phong quang?

Nhìn xem đã rõ…

Cắt mối tơ vương

Mặc kẻ lao xao chốn hí trường!

Lầu xanh núi biếc

Bổn phận lo lường

Tùy duyên thong thả

Rửa bát đốt hương

Đem tâm quy hướng cõi thanh lương

Mênh mang biển nghiệp

Đau khổ bao dường

Quay đầu lại thấy thêm thương!

Lập tức tâm trí tôi bỗng khựng lại. Đây là kinh nghiệm của một người trên sáu mươi, lớp tuổi cha mẹ mình, không lẽ lại nói điều không thực. Tôi càng giựt mình thêm khi suy nghĩ về biển nghiệp mênh mang vô bờ của tôi và của mẹ tôi. Phần tôi, để dịp khác hãy bàn; bây giờ, tôi xin nói đến những nghiệp báo mẹ tạo có liên can ít nhiều đến cái thớt sau hè nha.

Bây giờ, tôi xin bạn đừng lim dim cặp mắt, hãy nghe tôi nói một cách  nghiêm chỉnh bạn nhe. Vì đây không phải chỉ là chuyện tạo nghiệp của một người; hơn nữa, xin bạn hãy tập tánh “lắng nghe,” cần dứt bỏ thói quen nhắm mắt và chỉ nghe chừng… nửa lỗ tai!

Bạn biết không, từ nhỏ tôi đã có máu giang hồ vặt, nghĩa là thường bỏ nhà đi hoang. Khoan nghĩ bậy cho tôi, hỡi người bạn vàng. Đi hoang đây, có nghĩa là khi nổi máu “kiều phong”, tôi vội nhét vào mình vài bộ áo quần, kiếm chỗ ngao du vài tuần, rồi hoặc bị ba tôi đi tìm bắt về, hoặc tự động hồi chánh… vô điều kiện. Còn thêm tật ngủ hoang nghĩa là thích đi ngủ nhờ nhà hàng xóm, nhiều đêm mưa xuống, nhà dột, bị ướt như chuột lột. Tôi bất kể lời khuyên can, chứng nào tật đó dù phải ăn nhiều trận đòn thập tử nhất sinh do ba tôi trừng phạt. Mẹ tôi chỉ khóc thầm, dỗ dành. Tôi biết cả ba lẫn mẹ đều thương tôi, rất nhiều, nhưng mỗi người đối xử một cách.

Mẹ tôi là người lo lắng cho gia đình, quán xuyến mọi việc lớn nhỏ, từ vụ lúa ngoài đồng cho đến việc trồng khoai, nuôi gà, ngày đơm tháng kỵ của gia đình. Bao nhiêu công việc đều do mẹ tôi một tay trù liệu, bạn à.

Có một kỷ niệm làm tôi nhớ mãi tình thương của mẹ. Bữa đó là ngày tôi về thăm nhà như thường lệ vì tôi trọ học ngoài thành phố. Buổi tối, bữa cơm gia đình rất đầm ấm, với các em ngồi quanh mâm cơm nhà nghèo. Đêm đó có trăng, chiếu sáng chỗ mẹ tôi ngồi. Ăn uống xong, mấy đứa em gái dọn dẹp, tôi được “ưu đãi” cho đi ra sân chơi, (khỏi rửa chén). Đến giờ ngủ, tôi vừa nằm xuống thì nghe tiếng mẹ tôi nói  nhỏ bên tai:

- Xuống bếp, mạ cho cái ni.

Tôi rón rén ngồi dậy, không biết mẹ mình sẽ cho vật gì, mà sao lại có vẻ “bí mật” như vậy. Khi xuống nhà sau thường là chỗ dọn cơm thì thấy mẹ tôi chờ sẵn. Tiếng mẹ nói vừa đủ nghe:

- Đây nì, mạ chừa lại cho con đây. Ăn đi, mạ biết con ưng cơm cháy nên mạ dấu mấy đứa em mi.

(Mẹ tôi nói, mẹ tôi biết tôi thích cơm cháy nên, từ hồi chiều, đã giấu mấy đứa em tôi để chừa lại cho tôi mấy miếng cơm cháy đó.) Quả thật, tôi có tính thích ăn cơm cháy (sau này, có lần, tôi bạo gan sánh ngang với thú đọc thơ.) Mẹ tôi biết tính tôi, còn tôi không khách sáo gì cả. Vả lại, cũng không cảm thấy ngượng ngùng gì vì chiều nay, khi về nhà, tôi đã mua quà cho các em tôi. Ba ổ bánh mì, cắt đôi, một đứa một nửa. Tôi ngồi thưởng thức miếng cháy. Mẹ tôi ngồi bên cạnh. Miếng chạy ngoài bữa cơm thật là ngon tuy rằng sợ cả nhà biết, phần khác thì thấy trong lòng dâng lên một cảm giác khó tả: đó là tình thương của mẹ. Bạn biết không, nhà tôi nghèo nên việc đi học của tôi đánh đổi lấy nỗi lo toan vất vả của mẹ. Nào tiền học, nào tiền cơm hàng tháng trả cho người bà con. Dù phải chạy ngược chạy xuôi vay mượn, mẹ tôi vẫn không phàn nàn, chỉ mong cho tôi có được mớ chữ với đời. Có thể tôi đã quên hết những bài đại số, khoa học thường thức ở nhà trường nhưng tôi vẫn nhớ mãi bài học tình thương từ trái tim của mẹ.

Chuyện miếng cháy nửa khuya và hình ảnh người mẹ ngồi kế bên đã không rời tôi kể cả khi bôn ba theo đơn vị di tản về Nam. Sau này, khi đọc kinh Vu Lan vào mùa báo hiếu mỗi năm, hình ảnh bà Thanh Đề với nghiệp báo ngạ quỷ làm tôi chợt nhớ đến tấm thớt của mẹ sau nhà.

Thớt là một tấm gỗ dùng để mổ cá, làm thịt gà vịt. Tấm thớt nhà tôi có từ hồi  nào, tôi không rõ. Có điều, tôi nhớ nó mòn vẹt hẳn ở giữa. Vết dao ngang dọc hằn rõ trên mặt thớt. Đó là nơi nhiều sinh vật bị kết liễu dưới tay mẹ tôi. Điều tội nghiệp cho mẹ là phần của mẹ, nhiều khi, chỉ là một miếng, còn lại dành cho chồng con, bạn hữu nhưng nghiệp báo thì mẹ tôi phải gánh chịu một mình. Lòng đau như cắt, bạn à. Tôi mà không quyết chí đi tu thì làm sao tìm phương cứu mẹ được đây, hỡi bạn? Huống chi mọi việc ở đời chẳng như bọt nước, như huyễn ảnh như Tiên Điền đã nhắc nhở

Kiếp phù sinh như bào như ảnh

Có chữ rằng vạn cảnh giai không

Ai ơi! Lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Mùa Vu Lan về, tôi không muốn bạn trầm tư về sự phù du của kiếp người. Bởi có bạn hỏi nên tôi mới trả lời mà thôi. Đó, cớ sự xuất gia của tôi là như vậy đó, bạn đã vừa ý chưa?

Lễ Vu Lan vừa được tổ chức tuần rồi, bạn à. Mai mốt đây, tôi còn đi dự thêm vài ba buổi lễ tổ chức ở địa  phương khác. Lễ rằm tháng bảy trong năm đã đi qua nhưng tôi cảm thấy dư ba mùa báo hiếu còn bàng bạc trong chùa, trong tâm hồn. Y như cách giải thích của quý Thầy giảng sư thuở nào.

Thầy nói: chúng ta cử hành lễ Vu Lan một lần trong năm (tôi nhắm mắt tưởng tượng thấy ngài cao giọng nói tiếp), nhưng chúng ta phải ý thức và thực thi tinh thần báo hiếu của ngày lễ trong suốt cả đời, từ ngày này qua ngày khác. Ngoài việc đồng ý về lời dạy trên của Thầy, tôi thấy không gì bằng kể thêm cho bạn nghe câu chuyện liên can cái thớt sau hè của mẹ tôi, là vật ám ảnh mạnh mẽ tâm trí tôi từ khi tôi bắt đầu hiểu thế nào là nghiệp báo.

Bạn biết không, hồi đó vào khỏang năm 1976, dịp cuối đông, mỗi lần nhớ nhà, tôi lại hình dung đến tấm thớt gỗ cũ kỹ, mòn vẹt đặt cạnh cái ảng đựng nước bằng xi măng nơi sau nhà. Chưa vào chuyện nhưng chắc bạn lại thắc mắc. Duyên cớ gì lại nhằm nhớ nhà vào dịp cuối đông? Ui chao, không có cách nào thoát khỏi cái nhìn như “thấu gan thấu ruột” của bạn được. Thôi để tôi confess với bạn đây: tôi có tật nghe tiếng mưa rơi lại… nhớ cố hương. Bạn cho phép tôi được “lãng mãn” đôi chút cho vui nhà, vui cửa nhé! Để tôi  nói rõ cho rồi, là nhớ mạ đó, nhớ các em nữa. Mần răng mà không nhớ cho được, lần đầu xa nhà, lại không biết khi  nào mới gặp lại người thân. Nước mắt muốn ứa ra. Bóng dáng người mẹ hiền năm tháng tần tảo nuôi đàn con hiện ra hệt như hình ảnh trong bài ca mà tôi nằm lòng từ lâu

Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc mái đầu

Mẹ tôi đau buồn trĩu nặng đôi vai

Nuôi đàn con thơ nhỏ dại

Chỉ mong con mình có một ngày mai

Nhưng ngày mai - hiện thân của tương lai – trong bài ca, với tôi là cuộc sống xa nhà, tứ cố vô thân. Nghĩ mà tủi thân chi lạ. Còn, ngày mai của mẹ tôi sẽ ra sao? Bỗng nhiên, hình ảnh cái thớt, nơi mẹ tôi mổ cá, làm tép, chặt thịt, sửa soạn bữa cơm thanh đạm hàng ngày cho gia đình, đến với tôi như một nhắc nhở về sự tần tảo, chịu đựng không cùng của mẹ dành cho chồng con, đồng thời là căn nguyên nghiệp báo mà tôi đang dần dần ý thức được.

Nói cho ngay thì phải đợi tôi vừa tụng, vừa lễ sám mấy lần bộ Thủy Sám rồi, tôi mới hiểu nhiều hơn về lý nghiệp báo trong nhà Phật. Khi đó, mới thấy thương mẹ vô vàn.

Xin phép bạn (và bạn đọc) cho tôi ghi chú thêm. Trên đây là chuyện từ mùa Vu Lan năm trước, đến nay, tôi mới cầm bút để… trả lời hay trả nợ bạn. Xin bạn hoan hỷ nghe. Một phần bị con ma phong thấp “hành”, phần khác là nhiều việc bất  ngờ đã thành công trong “sứ mạng” đẩy tôi lên giường, xuống giường gần bốn tháng trời. Nhưng dù sao đi nữa Bồ tát vẫn còn thương nên đã gượng lại được rồi.

Bây giờ xin trả lời tiếp cho bạn đây. Hồi đó, nghĩa là hồi còn chạy lông bông, cũng biết thương mẹ, thương cha thiệt nhưng chẳng hiểu là bao. Từ ngày vào chùa, tình thương tự nhiên thấy thấm thía quá, bạn à.

Thấm thía nhất là lý nghiệp báo, nhân duyên trong nhà Phật. Nghĩ mà thấy thương cho vạn loại hữu tình, trong đó có cha mẹ mình nữa. Từ bao nhiêu đời, trôi nổi, luân hồi khắp các nẻo. Hết làm loài này đến làm loài khác, không ra khỏi được vòng lẩn quẩn: khổ báo sanh nghiệp chướng, có nghiệp chướng thì tạo thêm phiền não, rồi bị quả báo trở lại. Cứ như vậy mà tiếp tục hoài mãi, không bao giờ dứt.

Nói về kinh nghiệm cá nhân, bạn cho phép tôi kể thêm chuyện nữa cho vui. Nhớ là đừng chọc quê tôi “mít ướt” nhé, lần sau tức mình không kể, ráng chịu đó.

Hôm đó, tôi phát tâm lễ bái theo nghi thức trong văn kinh Thủy Sám ở chánh điện Chùa Từ Quang (San Francisco), tới một đoạn kia, bỗng nhiên nước mắt tuôn ra, không xướng tiếp được nữa.

Cũng may là giờ trưa nên chẳng có ai thấy cả, bằng không thì chắc “chướng mắt” lắm. Tôi dễ mủi lòng, bạn à. Cứ thấy lời kinh mô tả con đường sanh tử dài hun hút mà chúng sinh phải trải qua, biển trầm luân thống khổ mà mọi người chịu cảnh chìm đắm là tôi khóc. Thỉnh thoảng có người thấy thương hại: “tội nghiệp ông thầy, đã ốm yếu rồi sao lại hay khóc quá?” Ai nói gì cũng mặc, tôi đọc kinh rồi bất giác liên tưởng đến hoàn cảnh mẹ và người thân là tôi không cầm được nước mắt. Để tôi thử đi một chiêu biện luận, bạn nghe có xuôi tai không. Có người nói: “cười là tiếng khóc khô không lệ!” Như vậy, khóc ra nước mắt thì gần gũi và nhân bản hơn là nở nụ cười héo và không lệ chứ! Mà thôi, chuyện mình mình lo, hơi đâu mà bàn chuyện thiên hạ sự, bạn ha. Mà dường như nước mắt cũng là một thứ “lương dược khuyến tu” nhắc nhở tôi bền tâm vững chí trên đường đạo. Chỉ có hành thiện trên con đường này, may ra mới giúp được phần nào trong việc gỡ dần cái nghiệp báo cho song thân.

Trở lại kinh nghiệm của hôm tụng kinh Thủy Sám đó, tôi nhận thấy, ngài Ngộ Đạt quốc sư đã tu hành bao nhiêu đời mà khi nghiệp báo đến cũng bị nạn lớn, huống hồ chi chúng ta là những phàm phu hậu học, ắt khó thoát được lý oan trái. Tôi, bây giờ, ít ra cũng bắt đầu ăn cơm Chùa, tìm hiểu giáo lý nhân quả, biết điều lành thì cố làm, còn dữ thì cố tránh, nhưng còn cha mẹ… chưa phát tâm, chưa có nguyện, không biết sẽ ra sao đây.

Năm đó, tôi học chưa xong, tiền bạc đã có được bao nhiêu đâu, vậy mà cứ ước: phải chi về được bên nhà năn nỉ cha mẹ quy y, ăn chay mỗi tháng vài ngày cho nhẹ bớt nghiệp, chứ tấm thớt tanh mùi thịt cá còn nằm bên ảng nước thì rồi đây mẹ sẽ vẫn còn tạo thêm bao nhiêu nghiệp dữ. Nhưng than ôi! Nghĩ thì đơn giản, dễ dàng nhưng biển sâu cách trở, vạn thứ ngăn đường, cản lối, khó mà thực hiện được ước mong. Càng nghĩ, tôi càng nhớ càng thương mẹ vô cùng.

Mẹ tôi là mẫu người nhà quê, bạn à. Chữ nghĩa ít nhưng không lúc nào quên việc chu toàn bổn phận người vợ đảm, mẹ hiền. Tôi không biết lúc về làm dâu mẹ tôi có gặp cảnh “nước mắt chan cơm” hay không, vì khi tôi lớn lên thì ông bà nội đều mất cả. Nếu có, tôi tin chắc là mẹ tôi vượt qua mọi thử thách vì người may mắn gặp được lương duyên. Không ngờ vào thập niên 40, 50 của thế kỷ hai mươi mà các “đấng sanh thành” của tôi cũng romantic quá trời! Mẹ tôi là người hiếm hoi trong thời đại của người dám từ bỏ tất cả để hành động theo sự thôi thúc của trái tim, bạn à.

Nói đến đức tính của người vợ đảm, mẹ hiền, tôi xin phép được lấy trường hợp mẹ tôi làm điển hình để nhắc tới. Trong nhà, mẹ tôi thường nuôi một đàn vịt dành để giỗ chạp hay đãi bà con, bạn hữu.

Thực khách được trọng vọng nhất là ông ngoại hay thầy khóa Du - thầy dạy chữ Hán cho ba tôi - từ đâu dưới Truồi lên thăm. Những dịp đó, mâm cơm riêng dọn ở nhà trên lúc nào cũng đặc biệt tươm tất.

Một hôm đẹp trời, mấy mẹ con đang ngồi trước sân thì thấy ba tôi và thêm sáu, bảy chú nói cười vui vẻ, cùng đi vào nhà. Mẹ và chúng tôi vội đứng dậy chào hỏi. Ba tôi lên tiếng:

- Nhờ mạ thằng Long cho xin nồi cháo đãi anh em, chắc ai cũng đang đói quá.

Câu nói đó như là một lời xin khéo mà cũng là một mệnh lệnh, hiểu theo cách nào cũng được (đó là chuyện riêng của hai ông bà mà).

Tôi còn nhớ rõ là mấy mẹ con vội vàng phân công làm bổn phận. Việc khó khăn nhất được giao cho tôi xua đàn vịt đi qua điểm “phục kích.” Khi đàn vịt lọt vào “điểm nóng,” a la hốp, một chú bị úp trọn trong thúng, la quang quác. Sau đó, việc gì xảy ra thì xin bạn đoán dùm với tất cả vốn liếng tưởng tượng thiên phú của mình, tôi không cản đâu.

Cuối cùng là một nồi lớn cháo vịt thơm phức với răm hành tiêu ớt đầy đủ. Thế là tài tề gia quán xuyến của mẹ tôi được minh chứng, thể diện gia đình cũng được gìn giữ, và câu châm ngôn: “người ăn thì còn, con ăn thì hết” đã được thực thi đúng mức. Bù lại, nơi nhà sau, mẹ và anh em chúng tôi, mỗi người chia nhau chút đỉnh “chiến lợi phẩm” và chén cháo vét cạn đáy nồi trong tinh thần hoan hỷ cố hữu!

Bao nhiêu năm sau, nhớ lại chuyện xưa, thực tình tôi lại mang tâm trạng khác và suy nghĩ khác. Hôm đó, tại chánh điện chùa, dưới chân Phật, hòa trong câu kinh tôi đã khóc. Tôi khóc là vì “trăm dâu đổ đầu tằm.” Không chỉ con vịt bị làm thịt trong bữa rượu đãi khách mà còn vô số sinh vật trên tấm thớt sát sinh của mẹ tôi. Vì bổn phận gia đình mà bao nhiêu tội nghiệp mẹ phải chịu cả. Làm sao trả hiếu cho mẹ đồng thời làm giảm nhẹ phần nào nghiệp báo mẹ phải chịu? Cho tôi  nói nhỏ nhỏ thôi nhe. Chắc mình đi tu cho rồi bạn ạ. Đó, bạn lại cự nự với tôi nữa rồi. Thì vào Chùa hay ở nhà cũng được, đều có thể thực tập Phật pháp, miễn là có sự hành trì để có hồi hướng công đức. Được chưa? Thiệt người gì mà khó quá đi thôi!

Bạn ơi, bạn cho phép tôi được lặp lại câu: đền đáp công ơn cha mẹ là bổn phận của con người có văn hóa và văn minh. Với người Đông phương chúng ta, điều  này không có gì xa lạ. Thương yêu cha mẹ có nghĩa là quan tâm chu tất những việc cần thiết để cha mẹ yên tâm trong cuộc sống và an vui trong tuổi già. Thấy cha mẹ lo lắng chuyện gì thì mình chẳng nên vô tình hay thờ ơ. Tôi còn nhớ một chuyện mà tôi vẫn tự hào là kẻ biết chia xẻ ưu tư với cha mẹ khi còn niên thiếu. Bữa đó, trời mưa to gió lớn, nhà rung rinh tưởng như sắp tốc mái. Mẹ tôi lo lắng quá. Tôi không đợi mẹ chấp thuận, hăng hái bắc thang leo lên mái.

xếp dằn mấy bao cát lên múi tấm tôn cho gió khỏi lật. Khi leo xuống, người ướt như chuột lột nhưng nhìn lên thấy việc làm của mình có hiệu quả, tôi sung sướng như vừa lập được một kỳ công. Bữa đó, mẹ tôi không ngớt khen và “có vẻ” phục tôi là lanh lẹ và tháo vát, bạn hiền à. Việc trên tuy nhỏ, theo tôi, có ý nghĩa của việc làm hiếu thuận vì làm vui lòng cha mẹ và vừa quan tâm đến sự ưu tư, lo lắng của bậc sinh thành. Giờ đây, đã trưởng thành, tôi có thể làm được những việc nặng nhọc hơn hay khó khăn hơn để giúp mẹ cha, tuy vậy, tôi tin tưởng vào hạnh nguyện xuất gia, vào con đường an tịnh Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh có thể sống an lành và tạo sự an lành cho người khác, là phương cách hiệu quả hơn cả giúp tôi báo hiếu.

Bạn ơi, bây giờ, chưa đến mùa Vu Lan vì trời chỉ mới sang xuân, nhưng ai cấm mình bàn chuyện hiếu thảo, phải không bạn? Bạn đã bớt được chút xíu nào thắc mắc chưa. Dễ ợt à, đi tu là biết liền. Mong có dịp viết thêm cho bạn vào một ngày có nhiều sao trên trời và đầy hoa trên mặt đất. Chúc bạn hiền nhiều vui vẻ và niềm tin vào Chánh Pháp được luôn luôn tăng trưởng.

Bạn mến,

Tuy mang tâm nguyện dứt bỏ những phiền lụy của thế nhân nhưng có lúc mình cảm thấy trong lòng không vui, bạn à. Không biết có phải vì sự ra đi đột ngột của một người đạo hữu mà tôi vừa làm lễ tiễn biệt. Cũng không biết có phải vì tiếng khóc của chị, cảnh nheo nhóc của các cháu, mà tôi chạnh nghĩ đến thân phận nổi trôi và sự có mặt hữu hạn của kiếp người nên tâm tư thành bi lụy. Dù vì nguyên do gì đi nữa, cả ngày qua tôi buồn buồn làm sao. Định viết cho bạn liền, mong trút bớt được ưu phiền nhưng lại thôi, (có thể sợ bạn cười đó). Ai đời lại kể chuyện này (chuyện bị sự ám ảnh) với con người khoa học nhiều lý tính như bạn bao giờ!

Dòng sinh mệnh kết thúc thật bất ngờ, quả như lời Bụt dạy. Mới thấy anh bạn chạy lui, chạy tới, đùng một cái, điện thoại reo, tiếng chị buồn rầu trong nước mắt, báo tin, “anh đang hấp hối, Thầy ơi.” Tôi nghe mà rụng rời, thẫn thờ, suýt quên cả việc gác máy. Có thật cuộc sống là vô thường đến mức này không? Mà thật, đọc văn Cảnh Sách, chúng ta mới thấy kiếp người thật vô cùng tạm bợ, “như cây trên bờ, dây trên giếng, đâu được lâu bền” nên ngài Qui Sơn mới thiết tha khuyên người mới tập tu nên quán chiếu như vậy để siêng năng tu tập. Bạn đừng nghĩ, tôi lại sắp sửa lên giọng (một chút xíu thôi mà) khuyên bạn việc xuất gia.

Lúc mới vào Chùa, lúc còn đang “testing the water” đó mà, tôi có duyên làm việc tại một viện dưỡng lão trong vòng 5 năm. Hàng ngày, tôi cũng phải săn sóc, cho ăn, thay quần áo, đôi lúc còn tắm rửa cho chừng 12 cụ già. Thôi thì mặc sức mà quán chiếu vô thường, về sự khổ não của kiếp người tạm bợ. Một cụ già trên 70, tôi không còn nhớ tên, nằm trên giường từ sáng đến tối, đôi lúc được giúp trở mình chứ không nhúc nhích được tay chân, ngoại trừ cần cổ và cái đầu. Khi tôi gặp cụ thì cụ đã nằm trên giường hơn 10 năm rồi!

Bạn hứa là đừng để tâm bi quan thì tôi mới kể tiếp cho bạn nghe, chứ không lại bảo người ta mới “hăm mí” mà Thầy cứ đem chuyện sinh lão bệnh tử để dọa. Ai thèm dọa bạn làm gì, con quỷ vô thường đang trừng mắt nhìn chúng ta đó kìa! Còn bác Albert trước kia là thợ mộc của một hãng chuyên đóng bàn ghế. Bác lập gia đình, được  hai người con trai rồi ly dị. Con cái sống với bác gái, còn bác một mình cặm cụi làm việc cho đến khi lâm bệnh thập tử nhất sinh, bị bán thân bất toại. Tình trạng sức khỏe của bác càng ngày càng tệ, sau cùng bác nằm liệt trên giường, đến bữa, chờ người đến đút từng muỗng thức ăn.

Lúc tôi được giao trách nhiệm săn sóc, bác chỉ còn nuốt được chất xay nhuyễn mà thôi. Tuyệt đối không được cho bác ăn gì khác, ngoài thứ được bác sĩ quy định. Tôi nhớ, thức ăn duy nhất mỗi bữa của bác hình như chỉ là bột khoai tây thêm chút đậu xanh. Có hôm, ngồi đút cho bác ăn và ngẫm nghĩ sao đó, mà tôi lặng lẽ khóc (có nước mắt chảy xuống má đàng hoàng đó.) Không biết những giọt lệ ấy dành cho bác hay cho tôi nữa. Cuộc đời sao mà lặng lẽ, tẻ nhạt đối với một ông già như bác. Suốt năm, 365 ngày đằng đẵng, chỉ đến ngày sinh nhật của bác, tôi mới thấy người con trai dắt vợ và đứa con trai vào thăm. Ngoài ra không thấy thân thích nào lai vãng. Bữa tôi mủi lòng khóc là khi tôi vô tình khám phá ra rằng, người con trai bác đã dọn nhà đi xa nên chỉ gởi tấm thiệp “mừng sinh nhật” về cho bác. Mỗi năm nhìn mặt một lần, giờ, chỉ còn một tấm thiệp thay người. Tôi xót xa là vì thế. Mấy năm sau, bác mất. Bây giờ, ngồi  nghĩ lại, tôi thấy cuộc đời hẩm hiu của bác cũng là một trợ duyên giúp tôi trì chí kiên tâm theo đuổi hạnh nguyện của mình.

Đành rằng, già nua, bệnh tật là chuyện thường tình của con người, ai cũng phải qua cầu đó cả nhưng đôi khi chạnh nghĩ đến lúc chính mình phải đối diện với cảnh ngộ trên thì sao khỏi  hoang mang, ngậm ngùi.

Lúc nhỏ, tôi có dịp săn sóc ông nội tôi. Nói săn sóc chứ thiệt ra là chỉ quạt lò, pha nước giúp ông mà thôi. Nhưng từ lúc đó, tôi nhận ra rằng sinh khí và năng lực của con người mất dần đi theo tuổi tác. Như ông tôi, đi đứng chậm chạp, nói năng nhỏ nhẹ và không thấy còn thiết tha, hăm hở trước mọi việc như tôi. Không rõ, ông tôi, người có cảm thấy như tôi nghĩ hay không, tâm trạng mà sau này tôi tìm thấy trong Cảnh Sách “lụa thủng, chim bay, đường trước man mác chưa biết đi về đâu.” Về đâu giữa chốn bạt ngàn, đầy sương khói của ba cõi, sáu đường?

Bạn ơi, cái nhìn về cuộc đời mà bây giờ có người cho là yếm thế thực ra chỉ là nhãn quan xuất phát từ kinh nghiệm thực hành quan niệm cứu khổ của Như Lai mà nhà thi hào Tiên Điền đã từng đề cập trước chúng ta từ mấy trăm năm.

Sự bất trắc, hữu hạn của cuộc đời khiến cho những điều đạt được tưởng là vĩnh cửu rút cục chỉ là phù danh hay thứ phù vân. Kết cuộc ấy đến với mọi người không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, hay thành phần trong xã hội.

Giàu sang càng nặng oán thù

Máu tươi lai láng, xương khô rã rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu đón khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà u hồn biết bao giờ cho tan!

***

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà không kẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi.

Bạn ơi, chép lại một số câu trong bài văn chiêu hồn mà có lúc được nhà chùa dùng để mời gọi và siêu độ cô hồn trong lễ thí thực ngày rằm tháng bảy, tôi chẳng hề có ý nói bóng gió đến công việc của bạn mà sự hằng tâm hằng sản của thập phương, trong đó có bạn, đã làm nên những thành tựu  ngày nay cho nhà chùa. Điều mà Tiên Điền chỉ ra là trường hợp người ta mải theo đuổi tài lợi mà quên việc xây dựng và tài bồi cho mình giá trị tinh thần và tâm linh cần thiết.

Tương tự như điều mà người thầy học Thạch Trung Giả hình dung giúp chúng ta về kết cuộc bi thảm của kiếp người mà điển hình là những vong hồn đáng thương xuất hiện trong “một cuộc diễn hành thiên cổ, những bóng người, những cuộc đời, những cái kết liễu hiện biến tiếp  nối như những sẹt lửa của thiên tượng nhưng hằn sâu tâm não ta như không biết đã tự bao giờ mà còn đến bao giờ.”

Cũng có kẻ màn loan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga

Một phen thay đổi sơn hà

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới dòng nước chảy

Phận đã đành trâm gẫy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương!

Đau đớn nhẽ không hương không khói

Hồn ngẩn ngơ dòng suối ngàn sim

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo, càng đêm càng rầu.

Như tôi đã thưa cùng bạn, chung cuộc đáng buồn của cuộc đời đến với mọi người, kể cả những người quen sống trong ảo ảnh, trong thế giới riêng của họ. Số phận sau cùng thê thảm của giới bán tiếng cười cho thiên hạ, được ghi lại trong bài chiêu hồn, khiến tôi lại nhớ đến Vi Tiểu Bảo và cuộc sống của bà mẹ trong Lộc Đĩnh Ký của Kim Dung. Ngày ngày đàn ca xướng hát để mua vui cho khách, khi tan cuộc, mới thấy bẽ bàng cho kiếp phù du.

Nghĩ đến nghiệp báo đeo đẳng mỗi người, tôi nhớ đến cuộc sống lẻ loi, hiu quạnh của một người đàn bà trong xóm ngày tôi còn nhỏ. Bà chỉ có một đứa con, tá túc trong gian nhà tranh gần cồn cát. Khi đứa con lớn lên, đi lính xa, rồi lập gia đình riêng, và bà sống một mình, ra vào thui thủi. Mỗi khi nhớ đến, tôi lại băn khoăn cho hoàn cảnh đáng thương của bà khi biết thêm rằng đứa con độc nhất của bà vốn hờ hững việc chăm nom mẹ. Nhưng, ngoài việc băn khoăn, áy náy cho tình cảm một bà mẹ không may, nay, tôi còn có thể giúp được gì ngoài việc mỗi lần đọc kinh vãng sanh cho chư linh ký tự, tôi nhớ đến bà và góp thêm một lời cầu nguyện chân thành.

Thương chung là như vậy còn lòng riêng, tôi thường nghĩ đến những vong linh còn vất vưởng, chưa được siêu thoát mà ta thường gọi là cô hồn, nghĩa là những chúng sanh đang chịu lạc loài trong cô đơn, khao khát tình thương, sự đùm bọc và che chở. Hiểu theo nghĩa trên, cô hồn đâu có phân biệt là đã xa dương trần hay còn tại thế! Bạn nè, có lúc nào bạn một mình đi trên đường xa giữa cơn mưa to gió lớn? Gió mạnh như thể thổi bay chiếc áo che mưa, đường đi còn xa mà trước mặt thì tối tăm, không người để có thể hỏi thăm hay nhờ giúp đỡ. Đó là hoàn cảnh của cô hồn. Còn sống hay đã thác nào có khác chi!

Tôi  nói bạn đừng cười nhe, không hiểu sao đôi khi, tôi có cảm tình với nếp sống phiêu bạt tương tự như kiếp xiêu dạt của cô hồn. Không chừng, quá khứ thích làm kẻ lãng tử xa nhà đã thâm nhập khiến tôi trở thành một thứ cô hồn trong tâm thức? Bạn đã thấy sợ chưa?

Trong tinh thần của ngày xá tội vong nhân, xin dâng một nén hương lòng, cầu nguyện cho mọi loài chúng sanh, còn vất vưởng hay đã có chỗ nương nhờ, đều phát tâm Bồ Đề, tìm thấy con đường chơn chánh mà tu thân hành thiện.

Vậy là tôi đi tu được hai mươi năm. Thời gian xa nhà chỉ thiếu chưa tới bốn tháng là đủ hai mươi ba năm, hai mươi ba cái Tết trằn trọc. Đêm nay, trăng mọc ngang đầu, thơ thẩn đếm từng bước chân mà thấy thời gian như ngừng lại với bóng trăng, trong lòng bao mối cảm hoài.

Xin cám ơn bạn đã đọc đến đây. Ắt chúng ta có chút nhân duyên  hiểu  nhau nên mới có thể theo nhau  đến được chốn này. Dù là ai, làm gì, và ở đâu, xin bạn nhận cho tôi một niềm cảm thông sâu sa, một tâm niệm biết ơn chân thành. Ô hay, sao tôi

lại muốn khóc? Có phải tự xem mình cùng một xúc động như Trần Tử Ngang:

Tiền bất kiến cố nhân

Hậu bất tri lai giả

Niệm thiên địa chi du du

Độc thương nhiên chi lệ hạ

Có người đã dịch:

Ai người trước đã qua

Ai người sau chưa biết

Nghĩ trời đất vô cùng

Một mình tuôn dòng lệ.

Chúng ta đều là những con người cùng mang số kiếp, cùng chịu đau thương, và cùng có chung niềm vui, nỗi khổ trên đoạn đường đời đầy gió bụi. Chúng ta hãy dừng chân để tôi được hân hạnh mời bạn một ly nước trước khi tiếp tục lên đường ghé thăm một chút cuộc đời của bạn, sau đó cuộc đời của tôi.

HAI MƯƠI NĂM PHẤN ĐẤU

Có lúc tôi tưởng mình sắp bỏ cuộc bạn à! May nhờ có chút tín tâm thuở nào còn sót lại nên gượng theo bước người đi trước. Con đường xuất gia thật cam go, đầy bất trắc. Nói thiệt bạn nghe, có dạo tôi cho rằng câu “bông xoài trứng cá” chỉ là một cách nói tự đề cao làm cho người đi sau phải thán phục thành quả mà người đi trước đã đạt tới. Tôi lầm, bạn ạ. Trong cùng cuộc hành trình đi tìm chân lý, người đi không ai có vọng tâm làm nản lòng bạn đồng hành để mình trở thành người hiếm hoi về đến đích. Chính trong Kinh, Đức Phật đã từng khuyến cáo: Như Lai chỉ là bậc Đạo Sư, đi hay không là do chính bản thân mình, có đi thì tới, không đi thì sẽ không bao giờ tới, thế thôi. Hôm nay, ngồi chép lại cảm nghĩ của mình, thấy mình hơi ngây thơ, cứ tưởng tâm mình, trí mình bằng mọi người. Hú vía, cũng may còn có tâm cầu học, biết khiêm cung nên còn… sống sót đến bây giờ.

Nhìn lại ngày đầu, tâm mình thật như tờ giấy trắng. Còn nhớ, hôm đọc xong quyển “Tu Học Phật” của Bổn Nguyên cư sĩ với phần nói về Bồ tát Đạo, tôi đặt sách xuống và thầm nói với mình: Đây rồi! Một sự sung sướng dâng tràn như vừa tìm được của báu đã đánh mất. Lý tưởng Bồ tát Hạnh mở ra một lối sống vừa cao thượng, vừa lợi lạc, mà trong đó, chính yếu hơn cả là đáp ứng được “cơn khắc khoải” trong lòng – làm sao đền trả chữ hiếu cho cha mẹ. Tôi nhận ra lẽ phải và tin tưởng đây là sinh lộ cho mình trong cuộc sống xa nhà, xa cách cha mẹ đang sống bên kia biển Thái Bình.

Thời gian đầu đến với đạo thật hồn nhiên, vô tư vì lý tưởng chưa bị thực tế thử thách. Cứ tưởng, mình hành sử từ bi thì sẽ được đáp ứng tương tự từ người khác, như thế mới gọi là bình đẳng, bác ái, công bằng, tự do chứ. Chữ nghĩa còn đây, kinh sách còn ghi chép mà.

Đến nay, tôi vẫn không thể ngờ được rằng người vi phạm nguyên tắc đáp ứng nói trên lại là một người đồng đạo với mình.

Đây là thời gian tôi tá túc cùng một nơi với Thầy. Một bữa, có một sư cô xin tạm trú, Thầy bảo tôi nhường phòng của mình để giúp người đồng tu hữu sự. Tôi bằng lòng ngay, xem đây như là một cơ hội để thực tập Hạnh Bồ tát. Xếp gọn đồ đạc vào góc phòng và chỉ vào khi có chuyện cần, dành sự yên tĩnh cho Sư Cô. Tôi thực hành ngay lời yêu cầu không một chút do dự. Chừng hai ngày sau, Sư cô ra lệnh: cột một sợi dây trong phòng làm ranh giới và tôi không được bước qua sợi dây đó. Tôi cũng nghe lời, rất ngoan ngoãn. Cho đến giờ

phút đó, mọi chuyện đều an vui! Ngày ngày tôi dẫn Sư cô đi làm giấy tờ, lót tót theo sau như một tiểu đồng chính hiệu. Mỗi  ngày lo cơm nước, Sư Cô cần gì là tôi đi ra chợ mua ngay, có lúc hơi trễ còn bị la nữa, vậy mà tôi vẫn thấy vui, xem những việc la rầy, khiển trách là tuế toái, không đáng cho mình để bụng. (Không hiểu sao lúc đó tôi hiền như vậy.) Đến bây giờ, thỉnh thoảng, tôi vẫn còn bị quý Thầy “chọc quê” về giai đoạn làm điệu này.

Cho đến một hôm, việc lớn bùng nổ. Số là Sư cô chỉ xin tạm trú chừng vài tuần lễ để làm giấy tờ thôi. Thật sự, tôi cũng không biết, công việc giấy tờ của Sư cô đến đâu rồi. Sư cô là người Mỹ đi tu học ở Đài loan nên chuyện chi cũng rành hơn tôi,  lúc đó chỉ là người tỵ nạn sống năm đầu tiên tại xứ Hoa Kỳ. Thầy nhắc lại lời  hứa, Sư cô không chịu đi, viện đủ lý do. Ban đầu, thầy trò nhượng bộ. Đợi thêm một thời gian nữa cũng không thấy Sư cô rục rịch gì cả, trong lúc đó, chủ  nhà lại than phiền. Cuối cùng, cảnh sát tới. Ai gọi họ tới tôi cũng không rõ.

Tôi nhớ,  hôm đó, đi học về thì tôi đã thấy Thầy, Sư cô, anh chị chủ nhà và ông cảnh sát đang đứng trước sân. Mọi người có vẻ như chờ tôi. Mà thật, mới bước vào, ông cảnh sát hỏi tôi sự việc và cho biết Sư cô nói chính Sư cô là người mướn phòng, còn tôi chỉ là… người ngoài đường thôi. Lúc đó, tôi mới thật tức giận. Sư Ông nói đúng mà, tập khí vẫn còn trong tâm ta. Tôi lớn tiếng trả lời: “thát’s not true,” mặt đỏ bừng lên, sao lại có chuyện ngược đời như vậy được! Ông cảnh sát ôn tồn hỏi Sư cô, nếu cô mướn phòng thì receipt trả tiền nhà đâu, đưa cho ông xem. Chỉ cần điều đó thôi, sau đó, Sư cô phải chịu dọn đi. Thầy trò chúng tôi như trút được gánh nặng, và tôi học bài học “khai vị” đầu tiên trong cuộc đời tu hành. Qua câu chuyện đó, có người bàn thêm: Sư cô là người Mỹ nên tôi chỉ mới trả nợ một nửa, còn một nửa phải để dành cho người Việt. Hèn chi, bấy lâu nay cuộc đời của tôi lại tiếp tục hẩm hiu, cứ bị bắt nạn hoài! Có ai biết đâu, sau đó chừng ba tháng, khi gặp lại Sư cô trên một chuyến xe buýt với đầu tóc dài, loại tóc giả, tôi bàng hoàng mất mấy ngày.

Còn nữa, bạn à. Những lúc bệnh hoạn là khi mình cảm thấy cô đơn và yếu đuối hơn cả. Tâm trạng yếm thế, buông xuôi rất dễ dàng xuất hiện.

Ai có thể giúp mình vượt qua những giây phút buồn phiền, lẻ loi đó? Mình cần phải chuẩn bị tâm tư như thế nào để giữ vững niềm tin mà vượt qua cơn thử thách? Đó là những vấn đề rất thực tiễn không sớm thì muộn người xuất gia phải đối diện. Nếu không dự liệu và tìm cách đối phó thì có thể bị khuất phục trước hoàn cảnh.

Thật thế, người xuất gia chẳng phải là cá nhân siêu việt, chẳng phải thánh thần, nên cần học lấy kinh nghiệm người đi trước để kiện toàn việc giữ mình. Hiện nay, tôi đề ra thứ tự ưu tiên của đối tượng mà mình cần quan tâm như sau: người bệnh, khách thăm viếng và sau cùng mới tới cá nhân mình. Vì thế, trong chúng, khi có người bị bệnh, dù thân hay sơ, mọi  người đều có bổn phận thăm hỏi, và nếu cần, chăm sóc ân cần chu đáo, thể hiện và thực thi phương châm “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ” trong đời sống hàng ngày.

Về phương diện tâm lý, người xuất gia, nhất là người mới nhập chúng tu học, thường ít nhiều cảm thấy lẻ loi sau khi xa gia đình. Vậy mà khi bệnh hoạn lại không được bạn đồng tu lưu tâm, săn sóc thì chắc chắn tâm trạng sẽ suy sụp nhanh chóng. Kinh nghiệm cá nhân cho phép tôi đưa ra kết luận như trên. Có lần nằm trên giường bệnh, may mắn được tô cháo nóng, chút nước gừng giã nhỏ, tôi cảm thấy như được vỗ về, an ủi sâu xa khác hẳn tâm trạng của những lần nằm bệnh trước.

Bên cạnh tinh thần tương lân dành cho bạn đồng tu, tôi nghĩ người xuất gia cũng nên xem sự đau ốm, tuy vạn bất đắc dĩ, là sự thử thách tương tự như những thử thách khác mà người tu phải đối diện. Bạn nghĩ coi, xuất gia thì đi ngược dòng đời, cố vượt dòng sông sanh tử, công việc đòi hỏi một sự bền gan, trì chí của người phát tâm để vượt thắng được những khó khăn của điều kiện tinh thần, vật chất và sức khỏe. Tôi đã cố thực tập như trên khi dưỡng bệnh. Tôi nằm yên, theo dõi hơi thở, và sống như một người bệnh, nghĩa là để thân xác và thân tâm cùng nghỉ ngơi. Bệnh đến, bệnh cũng sẽ đi, còn hạnh nguyện và cuộc đời xuất gia của mình sẽ tiếp tục tồn tại. Phải giữ vững, bám chặt hạnh nguyện ấy dù trong bất cứ hoàn cảnh nào .

Năm xưa, có lần tôi suýt chết nhưng vẫn giữ vững niềm tin đem đến từ việc niệm Phật. Hôm đó, toán quân tôi di chuyển qua suối trong một chuyến thay phiên. Nước chảy rất siết nên phải cột sợi dây lớn vào đầu hai chiếc xe jeep đậu hai bên bờ suối làm hành lang di chuyển. Mọi người tuần tự bám vào sợi dây, lần bước để qua bên kia bờ suối. Tới phiên tôi, ba lô trên lưng, hai tay nắm chặt sợi dây, tôi lần từng bước, từng bước. Đến giữa suối, nước chảy mạnh quá, tôi không đủ sức đi tiếp. Hai tay nắm chặt sợi dây, cố giữ thăng bằng để khỏi bị nước cuốn trôi. Tôi cố bám lấy sợi dây, dần dần thấy yếu sức. Lần này chắc chết rồi, tôi lẩm bẩm như vậy với tiếng niệm danh hiệu Bồ tát trong lòng. Rồi, tôi bỗng thấy người nhẹ hẫng, thì ra, anh Tranh đã cố lội ra giữa dòng, nắm tay tôi, ra sức kéo vào bờ. Lần đó, tôi học được bài học kiên trì, phấn đấu, không chịu khuất phục khó khăn. Câu “tận nhân lực, tri thiên mạng” nhắc nhở tôi phải cố gắng, cố gắng thêm nữa trên con đường tu tập đạo giải thoát.

Sau đức tánh kiên trì, tôi nghĩ, người xuất gia cần có sự thành tâm khi phát nguyện cũng như khi hành trì. Quyết định tu hành là sự lựa chọn hướng đi tâm linh và tương lai cho chính bản thân. Phải suy nghĩ thật kỹ càng, thấu đáo trước khi chọn lựa con đường này. Một hôm, có người hỏi tôi, trước kia ở Việt Nam tu ở Chùa nào. Tôi mới thật tình trả lời, lúc ở Việt Nam tôi còn ở nhà, chưa đi tu. Họ lấy làm lạ và nói tiếp: qua Mỹ rồi, sao còn đi tu làm gì nữa, cho khổ! Sướng chưa? Tự nhiên lại buộc cho tôi cái tội tự làm khổ  thân mình. Có người nghĩ như vậy, còn bạn, có cười tôi không?

Ai nghĩ sao cũng mặc, tôi đã suy nghĩ thật kỹ trước khi chọn con đường đã theo như hiện nay. Mười phương chư Phật chọn con đường xuất thế làm phương tiện cứu mình, giúp người. Người đi trước còn để lại cho chúng ta tấm gương đáng kính, đạo phong cao khiết thì tại sao chúng ta không chịu tin tưởng, học hỏi? Cứ thực hành, chúng ta sẽ hiểu rõ giá trị của hạnh nguyện xuất gia. Mẩu chuyện chép trong sách dưới đây vẫn còn in đậm nét trong trí tôi. Hòa Thượng Hư Vân, người Trung Hoa, sống đến 120 tuổi, đã chép lại  hành trạng của ngài, có đoạn:

Khi đến núi Thiên Thai, ta (tức là Hòa Thượng Hư Vân) gặp một vị Tăng nên hỏi thăm chỗ của Pháp sư Dung Cảnh. Vị Tăng đó đáp: “Vị sư mặc áo vá ngồi thiền đàng kia chính là ngài đó.” Ta bèn đi thẳng đến, cúi đầu đảnh lễ nhưng lão Pháp sư chẳng màng quay đầu lại. Ta liền bạch:

- Con từ xa đến đây xin được thân cận học hỏi, mong ngài vì lòng từ bi mà chỉ dạy cho.

Pháp sư quay mình lại nhìn ta hồi lâu rồi hỏi:

- Ngươi là Tăng, là Đạo Sĩ, hay là người thế tục?

- Con là Tăng Sĩ

- Thế đã thọ giới Cụ Túc chưa?

- Bạch Pháp Sư! Con đã thọ giới rồi

- Người đã tu hành với hình dạng này bao lâu rồi?

Ta liền lược thuật lại sự tu hành của mình trong những năm vừa qua.

Pháp Sư lắc đầu hỏi:

- Ai đã dạy ngươi tu như thế?

- Bạch Pháp Sư! Con thấy người xưa, ai nấy đều tu khổ hạnh mới đắc đạo, nên con cố học theo.

Pháp Sư nói ngay:

- Ngươi chỉ biết người xưa tu thân. Vậy có biết người xưa tu tâm như thế nào không?

Nghe vậy ta giựt mình như vừa bị dội một gáo nước lạnh lên người, không biết phải nói gì.

Pháp Sư nói tiếp:

- Hình thể tu của ngươi như thế này, chẳng khác chi ngoại đạo, thật uổng phí công phu tu hành cả mười năm. Ở rừng sâu núi thẩm, ăn đọt tùng, uống nước suối, thọ mạng được trăm năm, bất quá chỉ là một trong mười loại tiên nhân như trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói thôi, cách đạo giải thoát rất xa. Có tiến lên thêm một bước nữa cũng chỉ chứng được sơ quả, chỉ tự giải thoát cho mình chứ chẳng cứu được ai. Nếu biết phát tâm Bồ tát, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh, tự độ cho mình, sau độ cho người tu đạo xuất thế gian mà không rời thế gian pháp. Đó mới chính là con đường mà đức Thế Tôn đã chỉ dạy. Nay ngươi miễn cưỡng không ăn cơm nấu chín, mặc quần áo rách rưới, chưa nói là làm bộ dạng khác thường, công phu quái dị như vầy mà đòi giải thoát được sao?

Ta bị lão Pháp sư cảnh tỉnh cho như thế, toàn thân chấn động đau thốn nhức xương, nên đảnh lễ xin Ngài chỉ dạy cho, Pháp sư nói:

- Ta dạy ngươi, nếu nghe thì ở, còn không thì nên đi ngay nơi khác.

- Bạch Pháp sư! Con đến đây chỉ mong được

học hỏi với Ngài. Sao lại dám không nghe lời chỉ dạy!

- Lão Pháp sư liền cho ta quần áo, bảo đi cạo đầu, tắm gội sạch sẽ, rồi phân công cho ta làm việc trong chùa (Đường Mây Trên Đất Hoa)

Thưa bạn,+

Nếu dùng lời văn mà vẽ ra được, thì đây là một bức tranh thật uyên áo cho chúng ta thưởng thức và học hỏi. Sự thành tâm cầu học nơi Hòa thượng Hư Vân, được đáp ứng bằng lời chỉ bảo chân thành, đầy trí huệ của lão Pháp sư Dung Cảnh, tựa như sự hòa điệu của đất trời khiến chúng sinh và vạn vật được khai thị về ý nghĩa của sự gia nhập cuộc hành trình cứu khổ của người lên đường cầu đạo. Năm đó, Hòa thượng Hư Vân chỉ mới trên ba mươi thôi. Ngài đã nuôi dưỡng và giữ vững tâm tu và hạnh nguyện suốt cuộc đời tu hành của Ngài. Ai dám bảo người sống hết lòng với hạnh nguyện mà không tạo được ảnh  hưởng tinh thần và tâm linh mạnh mẽ cho đương thời, và cho hậu thế?

Qua hai mươi  năm trời ăn cơm chùa, làm việc Phật, tôi vẫn thấy vui. Mặc dầu, đôi lúc vẫn còn những cơn buồn phiền, hờn dỗi vu vơ, có điều, học được dăm ba phương pháp chuyển hóa phiền giận, áp dụng thử thì cuối cùng đâu lại vào đấy.

Cơm chùa mình ăn

Việc Phật mình làm

Mặc cho thế sự quay cuồng

Đói ăn, khát uống, vui buồn xin… bỏ qua.

Có buồn thì buồn chừng hai phút thôi, có được không bạn?

MƯỜI NĂM PHỤNG SỰ

Bạn à, tôi muốn viết thêm phần này, không phải để khoe những sở đắc với bạn đâu nghe, mà tình thật là muốn nhân việc thực hành việc Phật trong thời gian qua để kiểm điểm lại chính mình.

Năm 1985, tôi thọ đại giới trong giới đàn Đại Nguyện ở Sacramento. Sau đó, xin Thầy cho phép rời chùa hoạt động với mục đích ban đầu nhằm vào việc gây dựng, tổ chức trong giới thanh thiếu niên. Thời gian sau, tôi nẩy ý tìm cơ hội đến các tiểu bang, vừa làm việc đạo vừa có dịp đi chơi. Tôi nói thật bạn đừng cười nhe. Tôi “mắc bẫy” của hai  người! Đó là Thầy Minh Đ. và ông văn hào Steinbeck của xứ Salinas.

Khi còn ở chùa Từ Quang, quý Thầy trẻ thường có dịp nói chuyện trời trăng qua gói potato chips. Thầy Minh Đ. thường gợi ý về việc tổ chức “lưu động tự”, tức là cái chùa có thể di chuyển được. Ý kiến ban đầu nêu ra là tậu một cái trailer (mobile home), sắm sửa mọi thứ tự khí, vật dụng cần thiết, mệnh danh là “thế gian trụ trì Tam Bảo.” Tới địa phương đã định, lưu lại chừng hai tuần, giảng Phật pháp, làm Phật sự, xong lại tiếp tục đến nơi kế tiếp. Chừng nào mỏi mệt thì về lại xứ “100 đồng có được 6 cô,” San Francisco đó mà. Ý tưởng kể ra rất ngộ nghĩnh nhưng cũng hợp thời không kém vì trên đất Mỹ có nhiều chùa được  Phật tử tạo lập ra mà chưa có vị Tăng trụ trì, đảm trách Phật sự thường xuyên. Đúng lúc “máu giang hồ” trong mình nổi lên cuồn cuộn thì sáng kiến thành lập “ngôi Chùa biết đi” này khiến tôi rất vừa ý. Rồi thêm lý do nữa, đó là khi tôi đọc tiểu sử nhà văn John Steinbeck của Hoa Kỳ, đoạt giải Nobel Văn Chương năm 1962. Nghe cũng thích thú quá. Ông đã làm cuộc hành trình qua nhiều tiểu bang trên chiếc xe riêng với con chó nhỏ thân yêu của mình. Nhờ vậy mà sau này những điều mắt thấy tai nghe trên đường mấy ngàn dặm đã giúp xây dựng văn nghiệp của ông. Thật là một công mà được đến… không biết bao nhiêu chuyện! Vừa có công đức, vừa được đức Bổn Sư khen ngợi là người biết phụng sự chúng sanh, lại còn có cơ hội xây dựng văn nghiệp, phát triển văn tài, và không chừng có ngày… (không dám nghĩ thêm đâu, bạn à, tôi biết mình bất tài rồi). Nên tôi khăn gói lên đường.

Đúng hai tháng mười lăm ngày sau thì tôi trở về Hayward. Quả thật, ngựa non háu đá. Bây giờ nghĩ lại thấy thẹn quá. Hay mình già mất rồi. Ai đời đang ở Philadelphia, theo chương trình và lộ trình là đi xe lửa xuống Raleigh, tiểu bang North Carolina thì tiện đường biết mấy. Vậy mà, nghe Ôn Hội Chủ bảo: T.L. gắng về giúp Thầy một chuyến, có ông Phạm Duy nữa. Phần muốn nghe lời Ôn cũng có, và phần khác muốn chứng tỏ là I can do cũng có, nên tôi mua thêm một vé máy bay khứ hồi Los Angeles – Philadelpha về dự buổi sinh hoạt của Đoàn Thanh Niên Phật Tử Nam California. Còn có tấm hình ghi nhận chuyến viễn du phó hội này đây, vui thật. Chỉ vì một buổi sinh hoạt thôi mà tôi ngồi trên hai chuyến bay, cộng chung là 12 giờ đồng hồ, ê cả người. Xong việc, trở lại Phila lúc 8 giờ tối hôm trước, sáng hôm sau lên xe lửa đi tiếp. 

Bạn đừng cười nghe, bây giờ dầu Ôn có dọa phạt quỳ hương, chắc tôi cũng phải nghĩ cách giải quyết nào khác, thuận tiện hơn, hợp lý hơn.

 

Tuy vậy, chuyến đi đó đã cho tôi một số khái niệm thực tiễn về việc tổ chức công tác hoằng pháp ở xứ người sau này. Lục địa Hoa Kỳ thật rộng lớn, từ Đông sang Tây cách nhau 3 múi giờ. Cho nên chương trình hoạt động nếu được đề ra thì cũng phải lưu tâm đến những điều kiện thực tế, đó là: yếu tố địa dư, phương tiện di chuyển và điều kiện làm việc. Đừng ham hố mà xếp đặt lịch trình làm việc cho nhiều mà không quan tâm đến các vấn đề trên, rốt cuộc sẽ mệt mỏi, đưa đến bỏ cuộc nửa chừng.

Còn về mặt nhân tình thế thái thì quả thật tôi đã học được rất nhiều. Từ câu chuyện trái bầu luộc ở Milwaukee cho đến cây chùm ruột ở West Palm Beach. Bà con Phật tử mình, không hiểu sao lại có thiện tâm đến mức “vô điều kiện” như vậy. Nghe tin có Thầy, có Tăng Ni đến làm lễ, giảng Pháp là quy tụ lại, đóng góp nhiệt thành về mọi mặt, mà không cần lưu tâm đến điều nào khác. Phải chăng đó là sự biểu lộ tấm lòng mến đạo thiết tha tiềm tàng trong tâm thức người Việt chúng ta? Trong cuộc sống nơi tha hương, nhu cầu của đời sống tinh thần và tâm linh càng trở nên cần thiết và biểu lộ mạnh mẽ gấp bội phần so với lúc ở quê nhà.

Sau chuyến đi dài, đi xa này, mỗi năm chương trình sinh hoạt của đạo tràng Hayward đều có phần hoằng pháp lưu động, tôi có cơ hội tiếp tục đi xa, và cả đi ngoại quốc nữa chứ. Bạn đã thèm “phương vị” của tôi chưa, được đi chơi hoài mà (vậy sao chưa chịu đi tu cho rồi, bạn hiền?) Kỷ niệm với những ngọn đèn hoa sen giấy được thả trên dòng Hán Giang vô cùng thơ mộng trong đêm bế mạc Đại Hội Phật Giáo Thế Giới, về những giờ phút tản bộ bên bờ hồ Michigan, cát trắng tuyệt vời, về những lúc ngồi cạnh những thanh thiếu niên mồ côi trong một trại hè do hội thánh Tin Lành bảo trợ để cùng cười, cùng khóc với nhau. Cuộc sống trong đó có cuộc đời tu hành của tôi quả thật có nhiều thi vị, phải không bạn?

Kể lể dài dòng như vậy, rút cuộc cũng không tránh được câu cật vấn của bạn: qua mười năm làm việc có được kinh nghiệm nào kể nghe coi?

Chà, đã là bạn tốt thì ai kia xin đừng làm khó dễ nhau chứ. Làm sao mà nói cho hết được đây. Thật ra, có những lúc rất vui mà cũng có những khi thật buồn. Vui buồn luôn song hành như một cặp bài trùng. Ta bà mà, no problem làm sao được!

Nhưng kinh nghiệm không phải là điều đã làm ta vui hay buồn mà là những điều gặt hái được và xem như bài học. Quả thật, tôi học được hai điều trên đường phụng sự: nêu cao tinh thần lợi tha và tìm được an lạc cho bản thân.

Trước hết, hoạt động cho chánh pháp là hoạt động cho tha nhân, cho xã hội nên lợi ích của tập thể, của đại chúng phải được đặt lên trên trước. Ngoài ra, việc xả kỷ thường được khuyến khích thực hiện song hành với tinh thần vị tha. Điều này có nghĩa là khi làm việc, quyền lợi của đại chúng là đối tượng duy nhất để phụng sự.

Thật thế, khi làm việc chung với nhiều thành phần trong tổ chức, tôi hiểu ra điều này: không bao giờ xem thành quả đạt được của tổ chức là công lao của một cá nhân ngay cả khi người ấy có đóng góp phần quyết định. Khuyến khích cá nhân gạt bỏ bản ngã khi phụng sự cho tha nhân là giúp tạo hoàn cảnh thuận lợi cho tinh thần lợi tha được phát triển. Như thế, cá nhân không thể mưu cầu gì cho riêng mình khi nhân danh hoạt động cho đại chúng. Nhân loại ghi nhận những thành tựu khoa học mà ông bà Marie Curie đạt được đồng thời trọng vọng tinh thần lợi tha hiếm có của hai nhà khoa học đã cống hiến cuộc đời, trí tuệ và sức khỏe cho nỗ lực thăng tiến xã hội. Gần hơn chúng ta là đức Phật với thông điệp cứu khổ của Ngài cho nhân loại. Giả dụ như ngày xưa, Ngài không “trốn nhà đi tu,” ngoan ngoãn nghe lời phụ vương thì bất quá khi kế vị, Ngài cũng chỉ làm tròn công việc của một minh quân tại một tiểu quốc. Nhưng, với tinh thần lợi tha hiếm có, Ngài đã từ bỏ danh vọng, địa vị và quyền lực cá nhân, và giác ngộ chánh pháp và vì thế, nhân loại chúng ta mới có cơ hội nhận thức và đi theo sinh lộ của tâm linh và giải thoát.

Thứ nữa, tìm kiếm an lạc cho bản thân, niềm vui cá nhân khi phụng sự đại chúng, điều này không mâu thuẫn với tinh thần lợi tha mà ngược lại, tạo hoàn cảnh để tinh thần vị tha phát triển. An lạc hay niềm vui trong tâm mà ta tìm kiếm là hạnh phúc ta tìm thấy khi làm việc bên nhau, không phải là cái lạc thú của người vị kỷ.

Niềm hoan lạc bừng nở trong tôi trong đêm hoa đăng Phật hội ở Hán Thành, bên những em thiếu niên thiếu may mắn trong trại hè ở California, sau này tôi tiếp tục tìm thấy trong những buổi sinh hoạt tập thể quy tụ đông đủ thành phần trong đạo tràng mà buổi cơm chay gây quỹ là một thí dụ. Nhìn các em thanh thiếu niên Gia đình Phật tử vui vẻ làm việc, phân công dọn dẹp, xếp đặt bàn ghế. Nụ cười nở rộ, ánh mắt thân thương, trìu mến, biểu lộ tinh thần tương trợ làm cho ta cảm thấy ấm lòng khi nghĩ về khả năng của thế hệ tới. Còn các bác lớn tuổi thì vẫn là những “chiến sĩ can trường” của đội xung phong, làm việc từ hừng sáng để hoàn thành những món ăn trong thực đơn.

Ai cũng vui vẻ mà làm việc nhắm đến lợi ích chung cho đạo tràng.

KẾT LUẬN

Năm tháng đi qua nhưng như chồng chất trên đầu, bạn à. Ngày nào mới mười sáu, đôi mươi, mà nay đã qua cái tuổi “ở trên đỉnh đồi của một kiếp sống.” Mỗi năm qua, ta cảm thấy cuộc đời một ngắn lại. Người nhạy cảm bi quan thì không ngăn được tiếng thở dài. Còn chúng ta, có thể giữ tâm bình thản và nở được nụ cười trên môi?

Nhưng… có đâu mà đơn giản vậy, phải không bạn. Đối với người lạc quan nhất, cuộc đời cũng phải có chút gian nan để họ có cơ hội chứng minh khả năng phấn đấu chứ, phải không bạn. Đời sống tuy ngắn ngủi, bất trắc, buồn ít hơn vui nhưng quý báu vô cùng. Đại đức Narada, một vị cao tăng người Tích Lan, đã có lần chân thành khuyến cáo chúng ta:

“Đời sống mặc dầu quý nhưng quả thật bấp bênh vô định. Cái chết, trái lại, là điều không thể cưỡng, và nó sẽ đến, chắc như vậy…

Vậy, ta hãy sử dụng xứng đáng khoảng thời gian ngắn ngủi của kiếp sống này, cố gắng trở thành nguồn hạnh phúc cho chính mình, cho quê hương xứ sở mình, và cho toàn thể nhân loại.”

Do vậy, chúng ta không vì nhận thức ra tính chất mong manh và bất trắc của cuộc đời mà quên đi việc tìm kiếm cho mình một hướng đi và nỗ lực hết mình để đạt được mục đích đề ra là mưu cầu hạnh phúc cá nhân và góp phần vào việc thăng tiến xã hội. Bạn à, vài câu thơ dưới đây cũng cho ta lời nhắc nhở chân thành:

Ngày này không đến hai lần

Một phân thời khắc ngàn phân ngọc ngà

Ngày  này không đến nữa mà

Một giây thời khắc một nhà ngọc châu

Bình tâm mà nghĩ, tôi thấy được làm người là một nhân duyên rất lớn. Không ngờ, lại còn có hoàn cảnh đi tu như ngày hôm nay. Ngồi viết, mà cứ nghĩ về bạn. Giờ này trong ngân hàng, bù đầu với  những kế hoạch, dự tính, chắc bạn phải thèm muốn giây phút tâm trí được thảnh thơi? Hay ngồi trong thư viện một đại học nổi tiếng, bên chồng sách vở, tài liệu dành cho bài luận văn đang soạn mà thời gian trình nạp đã gần kề, bạn có nhớ đến ngày hè cùng bạn bè đùa giỡn cùng sóng nước? Hay ở nơi nào trên trái đất này, chốn gió núi mây ngàn, âm vang chuông triêu mộ có nâng tâm hồn bạn lên cảnh giới tịnh độ ngay trong cõi tục lụy này? An lạc không ở đâu xa, an lạc ở trong lòng ta nếu ta chọn con đường đúng đắn, phục vụ cho sự thăng tiến cuộc sống và cho hạnh phúc của tha nhân. Chắc phải như vậy, chứ không có đường nào khác, bạn à.

 

Chiều nay, nắng ấm trải dài, viết lời kết thúc câu trả lời, tôi thật biết ơn mọi người, mọi loài, mọi vật trên thế giới ba ngàn với chân tình tha thiết có được trong tâm tôi. Mong sao, chúng ta luôn là bạn hữu Phật Pháp để cùng nhau nương tựa, cùng nhau học hỏi. Sau nữa, xin nhờ ơn Tam Bảo, cùng với đạo tràng, nguyện, hết cả kiếp này, tuân hành nghiêm chỉnh đôi điều trong câu đối dán trước tiền điện:

Trì tụng chân kinh tập nhìn sâu để hiểu

Thực hành chánh niệm nguyện thấy rõ mà thương.

Dù ở phương trời xa xôi nào, cũng xin bạn chia sẻ cùng tôi niềm hân hoan, tin tưởng đang dào dạt trong lòng khi phát nguyện.

Chúc bạn luôn được bình an, như ý.

PHẦN II

TẢN MẠN VỚI THẦY

Chột Nưa Một Miếng…

Thuở xưa, tôi cũng từng là một đoàn sinh áo lam ở quê nhà. Ôi! Biết bao nhiêu là kỷ niệm…” Bâng khuâng thoáng hiện trên gương mặt từ hòa cố hữu của người tu sĩ. Quê nhà Lương Văn với tuổi thơ bên con sông hiền hòa Đại giang. Con sông, phía bắc nối liền với dòng thơm của Hương Giang qua kênh Phú Cam, rồi ở phía nam cùng với sông Truồi trước khi ra khơi tạo nên đầm phá Cầu Hai, một vùng môi sinh ngập mặn đặc biệt của miền Trung.

Vào mùa nước nổi, nước mặn ngược dòng sông Hương đến tận Vạn Niên nên cũng như mấy làng bên, Lương Văn mùa chỉ có một vụ. Ngần ấy con sông đã dành cho vùng Cầu Hai một trữ lượng phong phú tài nguyên của đất trời. Cá có đến 230 loại và chim kể đến 73 loài.

Thổ nhưỡng ở Lương Văn không được cái ân sủng để tạo nên những thứ thời trân như Hương Cần với quít giấy ngọt ngào, Nguyệt Biều với thứ thanh trà mòng mọng. Bù lại, địa phương có được cái mỹ danh mang những hai-vẻ-đẹp*[1]. Người ta ít nhiều tin rằng đó là điều khiến Lương Văn thoát được bao tai kiếp của can qua khi mà ngay ở bên kia sông khói lửa đã lan tràn.

Bên chiếc bàn đơn sơ đặt ở một góc nhà dùng làm chỗ đón tiếp thiện tín cạnh một bàn thờ Phật cũng giản dị không kém, Thầy trầm ngâm, giọng chùng hẳn xuống. Sau lưng nhà tu hành là khuôn cửa kính tràn ngập những nắng thu. Ngoài song cửa, nắng của một trưa mùa thu óng chuốt như tơ trải đều trên một công trình dở dang còn ngổn ngang đất đá. Nắng thu vốn là thứ dễ gây hoài niệm.

 

Chột nưa một miếng còn thương

Nắm xôi bác Đẩu, áo đơm chị Trà

Chuyện cũ như lũ lượt trở về theo lời người kể. Hình ảnh ngôi chùa làng cổ kính và mái chùa Khuôn tuy chưa hoàn tất nhưng đã rộn ràng sinh hoạt của nhiều lứa tuổi áo lam như đang làm rợp bóng ký ức người xuất gia.

Nhớ đến tiếng chuông đại hồng Từ Đàm vào buổi sớm được nhận phái qui y từ thầy trú trì Thiện Siêu. Tên Phật được trao cho người đoàn sinh tuổi thiếu ấy là Nguyên Thọ. Nguyên tuy là chữ thứ 10 trong bài kệ pháp phái của tổ Thiệt Diệu Liễu Quán nhưng tỏ nghĩa người nhận nó được nhận vào hàng thứ 44 theo thứ tự truyền thừa của dòng thiền Lâm Tế. Thiều Chửu giải chữ thọ có đến 3 nghĩa nhưng đều qui về nghĩa chung là bền lâu trong một phước lành.

Nhớ đến cái đức bao dung khoan hòa với tha nhân, với chòm xóm nơi quê cũ dù tín ngưỡng có khác nhau - được vun trồng như một nếp nhà - tưởng như nhiều năm sau đã ứng nghiệm trong câu đối viết theo lối quán thủ được tặng trong những ngày đầu lênh đênh nơi xứ người: Nguyên chơn thường trú vô sanh diệt. Thọ lý tùy duyên kiến Phật đà.

Nhớ đến những năm tháng chia sẻ vui buồn với gia đình áo lam Lương Văn với bao trìu mến nhận được từ tay người và còn nhớ mãi như những nhân lành mà người đi sau cần tiếp tục gieo xuống. Nhớ đến nắm xôi còn dẻo thơm mùi nếp, hương vị chẳng thể quên mà bác khuôn phó Võ Đầu mỗi lần dúi cho đều kèm nụ cười đôn hậu như thể đoán được cái kiến đang bò trong bụng chú đoàn sinh mà Bác thật lòng trìu mến.

Nhớ đến nét mặt và nụ cười hiền dịu như người chị cả của chị Trà khi trao lại cho chiếc áo đồng phục mà chị đã khéo léo may lại cho đường chỉ bị sút, đơm lại cho cái khuy bị mất không biết tự lúc nào. Những hình ảnh ấy tuy qua lọt tâm hồn trong như lọc của tuổi thơ nhưng với thời gian kết tinh trong ký ức như một thứ đá quí.

.

Chột nưa một miếng còn thương

Nắm xôi bác Đẩu, áo đơm chị Trà

Chột nưa là một thứ thân môn mà để ăn được người ta phải cố tẩy cho bớt chất ngứa. Món ăn của con nhà nghèo. Còn cái cách dọn ăn mà người Chị cả của ngành áo Lam và cũng là đầu đề cho huyền thoạt của một bài thơ nổi tiếng đã dạy “Chột nưa gọt vỏ sạch, trở sống dao đần cho mềm, xắt khúc ngắn và khứa từng lát mỏng để kho cho thấm, xắt rồi rửa sạch để ráo nước. Tôm lột vỏ, tao với thịt xắt nhỏ, mỡ, ớt, hành tỏi, nước mắm, muối và một chút nước. Tôm sôi thấm, thêm một ít nước nữa và nước ruốc. Bỏ chột nưa vào kho cho thật mềm, Chột nưa thấm vào chỉ còn vài muỗng nước thì nhắc xuống bỏ lá sân lá lốt xắt nhỏ” (Hoàng thị Kim Cúc, Những Món Ăn Nấu Lối Huế, trang 113). Cái cách nấu kể trên là tài khéo của người cầu kỳ trong việc bếp núc, còn thì quen thuộc hơn nó là

thứ dưa nưa xuất hiện bên mâm cơm đạm bạc của bao người dân xứ Huế tương tự như thứ dưa bồn bồn của người dân đồng bằng miền Nam. Miếng ăn để nhớ thường chẳng phải là thứ cao lương. Nhớ đến miếng dưa nưa gắp mãi là nhớ đến vị hàn vi nhưng nồng ấm hương xum vầy của gia đình bên  mâm cơm thường ngày. Cũng như nắm xôi bao lần vội vã thưởng thức sau buổi sinh hoạt dưới ánh mắt trông theo mà hài long và trìu mến của người trao. Miếng xôi ấy sao sánh được với những thứ xôi hảo hạng và cao giá nơi thành phố. Ấy thế mà miếng ăn tình nghĩa ấy đeo đẳng người xuất gia từ lúc nhận ra được ý tình chan hòa của nó và muốn những hành động như thế, cho dù chỉ có giá trị tượng trưng thôi, cũng cần được thế hệ của những Quảng Ý, Huệ Ngọc, Nguyên Bảo, Quảnh Thanh … tiếp tục thực hiện cho những lứa tuổi sau mình.

Cơ ngơi của ngôi chùa trong tương lai - Phổ Từ - như một gạch dài  nối một con đường nhựa trước mặt với một con đường sắt ở sau lưng. Tọa hướng đông bắc mà độ thiên về bắc rất nhỏ nên vào  những ngày đẹp trời, vầng đông có thể “diện kiến” Đức Thế Tôn nơi chánh điện và ánh nắng ban mai rọi trên vai người ngồi tụng thời kinh sớm nơi điện Phật. Chiếm một diện tích đến 1 mẫu Anh tức hơn 4 ngàn thước vuông, lại có chiều dài tới 192m nghĩa là gấp chin lần chiều ngang, vùng đất Phật này tựa như có tiền thân là một dòng sông đã được bồi. Vùng đất ấy còn có một chỗ tàng kinh mà theo Thầy, danh xưng của nó là thư viện Phật học, chứa Tam Tạng kinh điển mà vị trí theo đồ án, ở sau tăng xá, tính ra là ở giữa thế đất. Nếu như có gợi ý liên tưởng đến hình rồng của thế đất thì vị trí của gian bảo điện ứng với hình tượng “hàm ngọc” và khu tàng kinh trùng với vị trí giữa lưng loài linh vật và khiến cho toàn thể kiến trúc còn mang hình ảnh của một thứ “long mã đồ thư.”

Vị trí có lẽ được đắn đo trong việc chọn lựa hơn cả là nơi được mệnh danh vườn Quan Âm ở cuối thế đất. Có lẽ chỉ trừ những lúc có chuyến xe lửa chạy qua còn thì khu vườn chìm trong u tịch. Vắng cả tiếng chim. Nơi dành cho trầm tư và suy tưởng. Ở một góc vườn là pho tượng Quán Âm cao hơn 2 thước (7 bộ Anh) mang cái hình ảnh cứu rỗi chúng sinh của một vị Bồ tát, tay phải giữ ấn cam lồ, tay trái cầm tịnh bình. Kiểu thức thì vẫn là mẫu mực thông thường thể hiện một nghi dung từ hòa, nhân ái và thương xót của một vị Phật-chưa-muốn-thành nhưng cái đạo tâm và sang kiến của những thiện tín thuần thành góp dựng nên thật đáng tán thán.

Chiều nay khi chạm tay vào gấu áo tưởng như đang lay động trước gió của pho tượng kim thân tạc từ thứ đá quí nơi quê nhà, kẻ chiêm bái cảm thấy rung động và ngùi ngùi như tìm thấy được một mối tương thân, một mạch truyền cảm với quê hương.

Pho tượng sắc đá trắng như sữa đứng trên bệ sen mười đóa, sau lưng là cội thông già. Có phải thứ thông quen thuộc ở vùng Thiên An, Từ Hiếu?

Trở lại chùa khi nắng thu đã nhạt. Bên cạnh, Thầy, một trong những người lãnh nhiệm vụ truyền đăng nơi viễn xứ, nụ cười hiền dịu và bao dung, giản dị trong chiếc áo nâu đã phai sắc, đứng bên cái nền mênh mông ngổn ngang đất đá như một công nghiệp chỉ mới ở bước khởi đầu. Hình ảnh ấy khiến người ta ít nhiều liên tưởng đến sự có mặt của những du tăng theo bước chân khai phá miền châu thổ của lưu dân Nam bộ hàng ba trăm năm trước với sứ mạng hoằng hóa và gieo trồng đức tin cho bao người xa xứ. Hạnh nguyện thật cao dày mà trong hành trang mang theo còn có hình ảnh của nắm xôi, tấm áo nặng chĩu ân tình nhận từ thuở nhỏ.

Tháng mười 2002

Bóng Điệu Pha

Tiếng thác nước rì rào từ hòn giả sơn là âm thanh duy nhất lay động khoảng không gian tĩnh mịch quanh tòa kim thân. Còn nữa là mùi lá thông, nhựa thông, và hương của nhiều loài thực vật dậy lên sau trận mưa đêm dài và nặng như những cơn mưa chì chiết tháng mười gửi từ quê nhà “… vừa ăn vừa khóc như mưa tháng mười.” Và còn nữa, nắng bảng lảng trên ngọn cây, tươi hơn màu mấy chậu cúc vàng đã mãn khai từ lâu. Mầu nắng hổ phách ấy từng thấy trên lưng chiếc áo nhật bình của chú điệu Pha bao lần khi người học tăng ấy lúc thì rảo bước trên đường làng, khi thì cúi mình trên chiếc xe đạp cũ kỹ lướt qua xóm vắng. Không phải cái dáng dấp hiền lành lẫn nụ cười chất phác của người xuất gia trẻ tuổi ấy đã khiến cậu bé lớp ba trường làng mỗi khi nhác thấy lại buông con vụ trông theo. Cũng không phải vì chiếc áo màu khói nhang có kiểu thức ngồ ngộ ấy khiến người học trò nhỏ tò mò bỏ cuộc chơi mà để mắt. Cái nhìn bỗng vời vợi, Thầy cất tiếng “Không hiểu sao hồi ấy hình ảnh của chú điệu lại khiến tôi chú ý như thế…” Người nghe đi tìm câu giải thích lại nhiễm thói lý luận duy lý nên nghĩ rằng điều thốt nhiên tạo được ấn tượng như thế vì ngay trong vô thức cậu bé đã tìm thấy điểm tương đồng ý nguyện với người xuất gia thiếu niên ấy.

Gối đầu trên những cao địa và dưới chân là dòng Đại giang hiền hòa xuôi nam, Lương Văn tạo được cái thanh bình và hiền hòa trong nếp sống người địa phương, tránh được phồn tạp của việc tranh giành mưu sinh và mở lối thênh thang cho con người đến với đời sống tâm linh. Những hồi chuông triêu mộ điểm vào không gian mỗi sớm mỗi chiều lọt vào ký ức con người lúc nào không biết và hình ảnh chú điệu kia không rời tâm hồn còn trong như ngọc của cậu bé học trò chính vì đây còn là hình ảnh quen thuộc mà hiền hòa của nếp sống nơi thôn ổ.

Huệ phong chung độ u lâm hưởng

Không cốc hương la pháp hải tân.

Hai câu trên là lời ngự tứ của một vì vương giả dành cho ngôi danh lam Túy Vân ở đầm Hà Trung. Chùa ẩn trên non cao nên tiếng chuông hòa theo gió dội trong ngàn và động vắng đưa mùi hương đến tận ven biển.

Túy Vân ở xa thế nên từ Lương Văn, người mộ đạo chỉ thường vọng bái. Lương Văn không có danh lam nhưng có ngôi chùa làng cổ ẩn mình trong bóng cây và ngôi chùa Khuôn xây cất còn dở dang vào những năm người tu sĩ còn niên thiếu. Chùa mới còn thiếu nhiều tiện nghi, hội quán dành cho Gia đình Phật tử chưa hình thành mà hội trường thì nằm ngoài tầm ước mơ của mọi người. Gặp buổi mưa dầm, đoàn đội nương vào gian chánh điện vừa tránh mưa lạnh vừa nghe giọt nước qua mái tôn lỗ chỗ thánh thót trên đầu. Vốn liếng Phật pháp như thu gọn trong bài Sám nguyện tụng mỗi kỳ sinh hoạt dài không đầy trang giấy. Nhưng, sao đây vẫn là chốn lung linh mãi trong trí nhớ người xuất gia. Sân chùa chưa có được một bóng cây cho dịu nắng hè nhưng nào có hề gì. Những buổi mà những người cùng một màu áo lam được quây quần bên nhau cùng chung một khúc hát, cùng chia một bài ca đã thành những kỷ niệm rợp bóng ký ức người thiếu niên Phật tử năm nào để khi nhắc đến chuyện xưa, nét mặt người thêm phần rạng rỡ.

Chuyện cũ không chỉ tươi thắm vì gắn liền với niềm vô tư hồn nhiên của tuổi trẻ. Người thiếu niên Phật tử Nguyên Thọ năm xưa còn lấy ra được từ kho tàng của dĩ vãng ấy những điều cần thiết cho trọng trách hiện tại của mình. Đã bao lần, dưới chân tượng Phật hay trên mặt giấy, Thầy thường khuyến khích sự làm việc chung với nhau như một cơ hội khiến lòng thương yêu, hiểu biết, thông cảm và đùm bọc lẫn nhau có dịp nảy nở giữa mọi người trong cùng một tổ chức. Câu châm ấy – có thể gọi được như thế - nếu không phải là kết quả gặt hái được từ những năm tháng mà người đoàn sinh Phật tử năm nào cùng chúng bạn mỗi sáng chủ nhật tìm đến từng nhà trong làng xóm nài bán cho bằng hết số tương chao lẫn nhang đèn cho nhà chùa mà cả nhóm đã nhận lãnh khi lên đường và phần thưởng mong đợi có lẽ là nụ cười đặc biệt hàm ý khích lệ của anh Huynh trưởng Phạm Thiệu hay anh Liên đoàn trưởng Phan quang Độ. Chú đoàn sinh thuở ấy xem việc bán hàng cho nhà chùa là dịp đi chơi cùng chúng bạn mà không hay rằng cái tình liên đới giữa chú và chúng bạn đã nẩy nở từ khi nào không hay. Do thế mà mấy chục năm qua, hình ảnh trong những năm tháng ấy còn được nâng niu trong lòng như vật quý.

Và “rằng nghĩa nặng dường non”.

Năm xưa, hình ảnh chú điệu Pha in những nét thật đậm trong tâm hồn cậu bé trường làng và ngẫu nhiên trở thành kẻ dẫn đường cho hướng đi tâm linh sau này thì sự hiện diện của thầy Nguyễn ngọc Thịnh trong một lần khen thưởng tại trường lại giúp cho người học trò nhỏ tuổi này, trong giây lát, thốt nhiên nhận ra rằng ngoài mối tương quan thầy trò được giản dị xem là một giá trị truyền thống, còn đặt lên vai, vào lòng người học trò một thứ trọng ân mà người thọ nhận phải nhớ mãi. Tô bún bò nóng hổi có làm ngon miệng người được thưởng trong giây phút nhưng cái nghĩa tình thoắt được nhận chân mới làm ấm lòng người học trò hiếu học ấy mãi mãi. Đây không phải là một phát giác có tính cách của một “đốn ngộ” cho dù người có duyên chưa đến độ tuổi lên mười. Phải chăng những lời căn dặn thường xuyên của bậc tôn trưởng trong một nếp nhà có qui cũ đã có hoàn cảnh để tác động lên tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Hình ảnh mẫu mực của người thầy cũng như bóng dáng bình dị và gần gũi của người tu hành nhỏ tuổi thực sự có sức nặng như ấn son để lại dấu vết trên tờ giấy trắng. Như dấu son khó phai, ơn nghĩa mãi còn canh cánh.

Chữ “ơn” hàm ý sâu trong thứ chữ biểu ý như chữ Hán, chữ “khốn” bên dưới là chữ “tâm” ngụ ý lòng luôn nhớ lúc được giúp khi khốn quẫn.

Người đệ tử của đại giới đàn Đại nguyện năm xưa đã thường lấy lễ để đãi người và hằng khuyến thỉnh hàng tăng chúng và thập phương dùng lễ trong việc xử kỷ và tiếp vật. Xa hơn nữa, còn xem như một trong những điều trọng của thanh qui. Điều ấy chẳng phải là chuyện khắt khe. Khi xưa, lễ được xem như yếu tố gìn giữ sự ổn định của giềng mối trong xã hội. Lễ chẳng làm suy giảm phẩm chất cá nhân hay gây thêm phiền toái trong quan hệ mà trái lại làm thăng tiến nhân cách và cải

thiện tương quan giữa những thành phần trong xã hội, giữa những phần tử trong tổ chức. Vị sư trưởng lãnh trách nhiệm chủ trì tự viện Hayward từ 17 năm nay đồng thời cũng là người hướng linh và hướng đạo cho 2 đoàn thể Phật tử trẻ địa phương và tổ chức cấp Miền hẳn có nhiều dịp chứng tỏ quan niệm là đúng đắn khi mà với trọng trách đảm đương, đã nhiều phen giải quyết được những dị biệt trong tư tưởng, dàn xếp được những mối bất đồng, khai thông được những trắc trở, giải tỏa được những ngộ nhận, gia tăng được mối thông cảm và bao dung lẫn nhau giữa những con người cùng một tổ chức. Tất cả có đi đến kết quả thỏa đáng cũng đều dựa trên tinh thần của chữ Lễ.

Đây cũng là lý do mà với tổ chức quy tụ giới trẻ của nhà Phật, nhất là với thành phần ở lứa tuổi thiếu, vị sư trưởng lãnh vai trò hướng đạo không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để nhắc nhở, đề cập, đề cao giá trị của lễ nghĩa trong tương quan với gia đình, nhà trường, đoàn thể, xã hội song song với việc khuyến khích mỗi cá nhân nuôi dưỡng cho chính mình một lý tưởng để theo đuổi và phụng sự.

Gần giờ ngọ, cái nắng cuối thu làm đủ ấm con đường có cái tên tiền định Đất lành (Meek-land) dẫn vào chùa. Chiếc xe xuôi chiều vào ngôi trường dạy trẻ rồi rẽ trái mà thung dung ra đường chẳng ngại chiếc xe đi sau họ nay nhất thời đã trở thành nghịch hướng. Bao người lái xe đến đây dạy học, làm việc hay để đưa đón con cái mỗi ngày đã mấy người còn nhớ cái không gian và khoảng đất góp phần tạo nên an toàn cho mỗi lần họ vãng lai ấy là phần đất của Phật. Người đoàn sinh áo lam Lương Văn năm xưa ngoài việc ghi nhớ bài giảng độ nào tại Linh Mụ về cái lẽ tương đối của việc xuất trần hay nhập thế, đã đóng góp thêm một ý nghĩa thiết thực cho bài giảng đã nghe bằng việc thực hiện một hành động thể hiện tinh thần Phật dạy. Mảnh đất mà có lần được người có sáng kiến sử dụng nó mệnh danh là ngôi chính điện thứ 2 của nhà chùa với ý nghĩa nêu cao tinh thần vị tha xả kỷ của người con Phật.

Quả thực đã có hạt giống bồ đề bám rễ trên Đất lành và tòa chính điện thứ 2 của ngôi chùa tương lai là hình ảnh những chiếc rễ đầu tiên bám sâu vào mạch đất.

Tháng 11-2003

Bên Kia Biển

Nắng mới chan hòa trên Đất lành (Meekland), nhuộm sáng ngôi chánh điện đang dần dần thành hình trong vẻ bề thế và “chính danh” khiến cho cái kiến trúc nhỏ nhắn, quen thuộc bằng gỗ sơn xanh ở trước nó, sơ cơ của Phổ Từ, chẳng bao lâu nữa sẽ chỉ còn là một tấm trong tập hình kỷ niệm của chính người đã tạo dựng nên nó. Sự hóa thân này của Phổ Từ là cần thiết cho một quá trình lớn mạnh và đi lên của tổ chức nhưng hình dáng cái nếp nhà khiêm tốn từng vang vọng tiếng kinh sớm chiều ấy hẳn còn bịn rịn dài lâu trong ký ức người thường trú. Nắng đầu xuân nhẹ và tươi làm rực rỡ thêm sắc hoa bên bậc cửa. Ánh mắt dịu dàng của vị sư trưởng khi đón khách bỗng trầm ngâm. Tưởng không phải là tình cờ mà cùng nhớ lại chuyện đúng ba mươi năm trước.

Tháng ba một ngày nguyệt tận.

“Hai mươi bốn tháng ba, ngày mà xứ Huế lên cơn sốt nặng nề sau những biến động của thời cuộc. Giòng nước sông Hương lặng lẽ trải dài màu ảm đạm, cầu Gia Hội vắng bóng khách bộ hành,tiếng chuông Linh Mụ cũng ngân vang âm điệu bi ai, sầu

thảm như xót thương cho số phận người dân cố đô vốn đã chịu lắm khổ đau, nay lại mang thêm nhiều đau khổ. Và từ đó con đã ra đi… đi tìm tự do cho cuộc sống…” (1) Đấy là hồi ức của Thầy vài năm sau đó. Thực thế, cơn hồng thủy đã đẩy bao người ra biển Đông trong đó có người con của Lương Văn tuổi đôi mươi. Giờ đây, người tăng sĩ không muốn gợi lại những đau khổ và mất mát mà bà con, xóm giềng cùng đồng hương đã phải nhận chịu trong vận nước nhưng chẳng quên những run rủi, may mắn mà mình gặp được trên đường bôn đào. Một chỗ an toàn và miễn phí trên con tàu xuôi Nam lánh nạn mà một người chủ gia đình đảm đang đã sốt sắng dành cho. Những ưu tiên về thủ tục nhập cảnh vào vùng đất mới được đặc cấp cho 17 người đồng ngũ là thành phần còn lại của một đơn vị lưu lạc từ tuyến đầu. Những may mắn tình cờ ấy càng nghe càng khiến cho người ta không khỏi nghĩ đến từ một ơn thiêng. Chuyến vượt biển ấy có thêm ý nghĩa của một cuộc hành trình tìm điểm đến cho tâm linh bởi vì không bao lâu người thanh niên Lương Văn đã tự tìm đến chốn khói hương tạm thời cho người tị nạn ở trại Chaffee và nảy sinh ý nguyện xuất gia từ đây.

Phật tiền ngày bạc lân la…”

Fort Chaffee ở một tiểu bang nằm trong lục địa, Arkansas, vốn là một nơi quân thứ, khi ấy trở thành nơi trú chân cho hàng mấy chục ngàn người dân Việt. Ngoài thức ăn, nước uống, y phục, giải trí không thiếu, nhu cầu tâm linh của đoàn người ở đây cũng được chiếu cố. Điều này nên được ghi nhớ là công chu đáo của nước chủ nhà. Hẳn không ít người còn ngạc nhiên khi thấy sự hiện diện của một nhà sư trẻ đồng thời cũng là một du học sinh, thầy Tịnh Từ, trong trại Chaffee tuy phần lớn sinh hoạt của nhà Phật thu gọn vào thời công phu mỗi chiều. Người đoàn sinh áo lam Lương Văn năm xưa là một trong những người đầu tiên “ứng nghĩa” đến nơi vốn là một hí trường của căn cứ để góp tay quét dọn, sửa sang thành nơi qui ngưỡng tạm thời cho những người hướng Phật. Ngôi Phật đường Chaffee đơn sơ dường ấy nhưng cũng đủ tự khí, pháp khí, cả đôi chữ nho thường thấy ở mấy ngôi chùa cổ: Pháp luân thường chuyển. Phật nhật tăng huy. Và cả bức tiếu tượng lớn đức Thế Tôn ngự trên tòa sen - một tác phẩm nghệ thuật của nghệ sĩ họ Vũ sau này trở thành một cố tri – Ngôi Phật đường ấy nên được kể là trú xứ thứ nhất của Nguyên Thọ, người thường xuyên giữ nhịp cho câu kinh chiều bằng tiếng đồng và tiếng gỗ. “Tuy thế,” Thầy nói, “chỉ có thầy Tịnh Từ và một thầy khác trú trong Niệm Phật đường, vì chỗ ở chật chội lắm. Còn tôi, mỗi tối, khi hết việc thì trở về chỗ của mình trong trại.”

Thế rồi cuộc sống “ăn chung ở trại” của những người di tản kéo dài được 7 tháng. Vào  một ngày cuối tháng chạp cùng năm, Chaffee chấm dứt nhiệm vụ của nó. Người người phân tán đi bốn phương để bắt đầu việc tự xây dựng cuộc sống mới cho cá nhân và cho gia đình mình… Người thanh niên của Lương Văn – khi ấy còn khá nhiều nét thư sinh – cũng rời trại mà hành trang cá nhân lúc lên đường chỉ có “món” duy nhất là ước mơ của tuổi trẻ.

“Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.”

“Lý tưởng Bồ tát hạnh mở ra một lối sống vừa cao thượng, vừa lợi lạc, mà trong đó, chính yếu hơn cả là đáp ứng được “cơn khắc khoải” đang dằn vặt trong lòng mình – làm sao trả chữ hiếu cho cha mẹ. Tôi nhận lấy ngay và tin tưởng đây là sinh lộ cho mình trong cuộc sống xa nhà, xa cách mẹ cha đang sống bên kia biển Thái bình dương.” ([2]) Người thanh niên Nguyên Thọ đã suy nghĩ như thế trước khi theo chân thầy Tịnh Từ hướng về miền Tây, nơi mà như một nhắc nhở tiên thiên, vùng đất có chung với quê nhà một biển rộng!

Hồi tưởng lại những trăn trở, lưỡng lự tương tự kẻ bộ hành đứng giữa ngã ba đường phải chọn một hướng đi, Thầy không bỏ lỡ dịp để mách bảo cho người đi sau cái kinh nghiệm của mình “Phải suy nghĩ cho thật kỹ càng trước khi chọn lựa con đường xuất gia cho mình.” ([3]) Lời khuyên ấy hiển nhiên là một nhắc nhở đối với quan niệm của những người tìm đến cửa Phật do xung động tình cảm nhất thời hay cái quan niệm vẫn còn khá phổ biến xem việc nương náu thiền môn là một giải pháp cuối cùng vì không còn cách lựa chọn nào khác!

Việc được bổn sư chọn ngày đức Thế Tôn xuất gia (mồng 8 tháng 2 năm Đinh Tỵ - 1977) làm ngày chính thức qui Phật không hẳn chỉ là một điều có ý nghĩa với người tân tu Nguyên Thọ mà thực ra luôn nhắc nhở người, nay được liệt vào hàng trưởng tử của Như Lai, luôn nhớ đến cái hạnh nguyện của người xưa khi quyết định rời cuộc sống thế nhân để cầu pháp.

Từng là người có mặt, chứng kiến một phần cuộc tương tàn trên quê hương, từng cảm thấy nỗi đau khổ, sự mất mát của bao người chung quanh trong cuộc xung đột ấy và cũng từng mang hạnh nguyện từ lúc ấu thơ rằng sẽ một đời phụng dưỡng mẹ cha, nay hoàn cảnh phút chốc thay đổi, bị buộc phải rời xa mái ấm gia đình, người thanh niên Nguyên Thọ cảm thấy như “con chim lạc đàn vội vàng vỗ cánh bay cao như lo sợ cơn mưa thình lình đổ xuống” ([4]). Và sau bao trăn trở, người thanh niên ấy đã quyết định đầu Phật để có cơ hội thực hiện trọn vẹn những hạnh nguyện ban đầu nhưng cao rộng hơn: phát xiển hạnh bố thí cho tha nhân. Bởi thế, cũng trong năm ấy, người làm việc cũng như khách vãng lai Viện dưỡng lão Công giáo thánh Anne ở San Francisco ít nhiều mục kích một người phục vụ mới - một chú điệu người Việt tóc còn rất xanh - nhẫn nại và tận tình nâng giấc, chăm lo cho người già yếu. Và trong những giây phút tịnh tâm bên hang đá thờ kính đức Maria của dưỡng đường này, người tân tu Nguyên Thọ hẳn đã sớm nhận chân con đường gần nhất đến với Như Lai qua ý thức và sự phục vụ vô cầu báo cho tha nhân, cho những người thiếu may mắn.

“Tịnh Độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương…”

Người mà sau này có thể tự vạch cho mình và thực hiện được những chuyến thuyết giảng qua 20 tiểu bang trong 3 tháng trời phải kể là mẫu người năng động hiếm thấy. Rõ rệt hơn cả là khi mới là một tân tu, tính năng động đã thúc đẩy người tăng rất trẻ ấy tìm kiếm cho mình một phương pháp tu học thích hợp cho mình trước đã. Không vội nhập vào nếp sống đạo vị sẵn có trong tự viện như hầu hết người mới xuất gia đều thực hiện, người học tăng Nguyên Thọ đã tự tạo cho mình sự tu trì bên ngoài tự viện, tạo lập một thời biểu tu tập riêng cho đến khi thọ sa di giới. Điều trên đã ít nhiều biểu lộ sự tự tín đặc biệt của người theo đuổi nó. Bởi vì, nếp sống qui củ và không khí thanh tịnh của tự viện là hoàn cảnh thuận lợi cho việc tu học của người xuất gia nhưng chính việc đương đầu, vượt thắng được những cám dỗ của cuộc sống phức tạp bên ngoài tự viện mới tạo nên nội lực vững vàng của người chân tu. Như thế, việc tăng cường nghiêm nhặt thanh quy với học tăng sao có hiệu quả bằng việc khuyến khích họ tự rèn luyện để tự thắng bản thân trước những cám dỗ và mê lầm?

Người đã được chọn cho một thời điểm có ý nghĩa để quy Phật còn muốn tìm kiếm cho mình phương pháp tu trì có hiệu quả. Theo dấu bổn sư, người tân tu trẻ tuổi này, từng có mặt tại Trung Tâm Zen của pháp phái Tào Động để thực hành thiền, cũng từng đến với Thiên Thai để tham cứu nhất tâm tam quán, để sau đó có thể rút ra kết luận rằng sự phối hợp khéo léo và quân bình giữa trau dồi giáo lý và sự thiền định hợp cách là phương pháp khả thi và khả thủ.

Người thường đề cao sự tự thắng là chiến công lớn nhất của sinh vật có ý thức thật xem trọng sự tu thân. Ngoài tư lương công phu sớm tối còn tự lập cho mình một thời biểu thiền và quán 2 phiên mỗi ngày vừa để sám hối nghiệp chướng vừa để soi chiếu nội tâm. Công việc khổ luyện ấy được người tân tu tự nguyện ghép mình vào ngay từ thời gian đầu chính thức đặt chân vào cửa Phật.

Sau nữa, ngăn nắp, chu đáo là những đặc điểm mà ai cũng nhận ra khi lai vãng đến 2 tự viện do vị sư trưởng chủ trì. Nhưng ít ai nghĩ rằng điều trên không chỉ là cá tính bẩm sinh mà do học hỏi và trau dồi cũng trong giai đoạn bước vào cửa Phật. Phải nhận ra rằng với người tăng sinh này, việc xuất gia quả đã được cân nhắc kỹ càng và việc tu học được thực hiện một cách ý thức thuộc nhiều lãnh vực, trên nhiều khía cạnh và dưới nhiều hình thức.

Quả thế, với người tân tu đôi mươi này, nhà dưỡng lão thánh Anne ở San Francisco còn là một trường học lớn mà bà giáo chính là nữ tu Blair, người khán hộ có trái tim vị tha vô biên, phục vụ cho tha nhân với ý thức tận hiến cao cả và ngôi dưỡng đường mà bà phục vụ là một kiểu mẫu của khoa học tổ chức. Như thế, khi đến viện St. Anne để thực tập và thực hành hạnh Bồ tát, người tân tu Nguyên Thọ còn tìm thấy ở nơi đây tấm gương sáng chói của người đi trước - người nữ tu Blair - để vững tin trên đường phục vụ tha nhân đã tìm được người đồng hành mẫu mực. Ngoài ra, ngày lại ngày, người tăng trẻ học hỏi ở đây cách thức làm việc, cách phân công, phân nhiệm, sự tổ chức khoa học nhịp nhàng để sau đó ngay từ bước đầu áp dụng và thực hiện vào công việc mà mình được giao phó. Hai mươi bốn năm trước đây (1981), người tăng sĩ trẻ đã dự vào việc tổ chức lớp học Phật cho đại chúng vào cuối tuần tại chùa Từ Quang. Lớp học bất phân nam nữ, tuổi tác, trình độ, màu da… với mục đích là “trau dồi kiến thức Phật học và bồi dưỡng đời sống tâm linh mà cứu cánh là đạt sự an lành ngay trong kiếp sống.” ([5]). Đến nay, hình thức thuyết giảng có thể tùy duyên mà thay đổi, tổ chức có thể quy mô lớn nhỏ theo hoàn cảnh thực tế nhưng mục tiêu của việc học Phật không khác lúc ban đầu.

Xót người tựa cửa hôm mai…”

Ba mươi năm trước, người con của một gia đình Lương Văn đã rời quê nhà trong bối rối cực kỳ. Những giờ phút ngắn ngủi của một ngày về phép trôi nhanh sau bữa cơm chiều quây quần bên những âu lo của cuộc tao loạn gần kề. Ngôi nhà thân yêu ở đầu ngõ nơi xóm Giữa một nửa lợp ngói liệt đỏ, một nửa còn lợp tôn. Ngôi nhà có cây mai rực rỡ sắc hoa nơi sân sau như nhắc người nhà thời điểm đón xuân về. Ngôi nhà ấy như nguyên vẹn hàng bao năm sau trong ký ức người đi. Mọi thứ anh đã bỏ lại khi trở lại Dạ Lê vào lúc trời vừa sáng. Anh có thể nói những gì với người thân trong lúc chia tay nếu anh nghĩ rằng chuyến rời nhà lần này khởi sự cho việc xa cách trong một nửa chu giáp. Không phải con số 30 năm tròn. Ba mươi năm lẻ 12 ngày. Người đi chẳng ngại cái đằng đẵng của việc chờ trông mòn mỏi nên đã lấy ngày làm đơn vị để tính thời gian xa cách.

Ba mươi năm qua, người con bịn rịn chia tay mẹ để lên đường nay đã thành vị linh hướng đáng kính của một địa phận còn rưng rưng khi nhớ hình ảnh người mẹ ngày nào tay run run đẩy rơm vào bếp, nước mắt đã lưng tròng khi nghe lời chào từ giã. Dường như tình thương luôn mãnh liệt của một người mẹ đã khiến riêng người có linh cảm đây không phải là cuộc chia tay như những lần người con về phép trước đây.

Vị sư trưởng bồn chồn với thời gian tưởng như qua chậm hơn ngày thường. Hôm nay, việc được cầm lại bàn tay của mẹ, được nhìn lại ánh mắt dịu dàng năm xưa của đấng sinh thành, việc ấy chỉ còn trong gang tấc. Cuộc hội ngộ sau những đằng đẵng cách biệt có ý nghĩa của sự trùng sinh đối với người con chí hiếu.

Ngoài sân, mây trắng bàng bạc trên trời cao, nắng đầu mùa vẫn rưng rưng.

6 tháng 4 – 2005

Tuổi Điệu Sáu

Chép xong đoạn nào, tôi  ngừng bút suy gẫm lời thầy Tịnh Từ dạy trước đó. Thật khó mà quên được khung cảnh ấm cúng của những buổi học kinh luật đầu tiên này. Thường thì thầy dạy tôi mỗi tuần hai lần, mỗi lần khoảng 90 phút. Nói cho ngay thì cái cảnh một thầy một trò trong ngôi  nhà vắng vẻ cũng có một nét gì cô liêu và trống lạnh. Tuy  vậy, nhờ những buổi công phu sáng tối lại có lúc gần gũi trong các công việc hàng ngày nên chi tình thầy trò càng ngày càng thắm thiết hơn.”[6]

1661 đường Fulton kế cận khuôn viên trường đại học nổi tiếng mang tên thành phố Cựu Kim Sơn và chỉ cách chừng mấy  ngã tư căn hộ hai phòng của một chung cư ở đường Hayes, nơi mà đôi thầy trò từng tá túc một thời gian sau khi trở về từ Fort Chaffee. Bề ngoài cái ngôi nhà trát vữa cũ kỹ tuy ở chốn phồn hoa dường như không lưu lại rõ nét ngay cả trong ký ức người từng lưu trú ở đấy. Nhưng khoảng không gian bên trong là cảnh giới đặc thù của hai người muốn theo đuổi một hướng đi cho cuộc sống tâm linh khi mà ở bên ngoài khuôn cửa là cuộc sống sung mãn vật chất và hào nhoáng diện mạo của chốn đô thị có tiếng là nơi hấp dẫn kẻ vãng lai. Người thầy thì muốn nơi trú ngụ khiêm tốn ấy tạm là nơi quy ngưỡng Phật, một niệm Phật đường, cái tên mà dường như chỉ để nói lên sự kiệm bạc do hoàn cảnh. Còn trò, điệu  Nguyên Thọ, sốt sắng để thì giờ thực hiện tấm bảng nhỏ đề mấy chữ bằng sơn đỏ Niệm Phật Đường Từ Quang. Như thế, ngôi nhà vắng này, ngoài số nhà lại có thêm một danh xưng mà kẻ đi sau không nên quên là một trong những nơi đầu tiên nối tiếp ngọn lửa truyền đăng từ quê nhà kể từ khi ly tán.

Nói thế, không ai quên được tâm trạng của những người ra đi thuở ấy ngay cả người tự nhận là đã “thoát vòng tục lụy” nói chi đến điệu Nguyên Thọ mà những giọt nước mắt cho nhà, cho mình giữa những người ly hương xa lạ ở Chaffee mấy năm trước dường như chưa ráo. Nỗi quạnh hiu trong ngôi nhà vắng thui thủi 2 thầy trò trở thành ấn tượng dài lâu trong ký ức người tân tu được thố lộ còn là nỗi niềm của một người đã trưởng thành do run rủi được đưa vào một môi trường xã hội hoàn toàn lạ lẫm mà không hề được chuẩn bị trước. Không lâu, Nguyên Thọ đã thoát ra khỏi cái ghetto trong tâm hưởng bằng sự tích cực dấn thân vào xã hội mới. Bước đầu, chú học nghề điều dưỡng để có thể thực hành hạnh Bồ tát trong việc chăm sóc người già yếu tại viện Anne đồng thời trở lại học đường (San Francisco City College và SFSU, CSU Hayward sau này) để “tái trang bị” kiến thức cần thiết cho cuộc hành trình mới. Như thế, hành trạng của Nguyên Thọ mà nếu sau này có người nhắc đến, thì có thể xem Fort Chaffee là điểm dừng của cuộc trôi dạt sau phong ba, còn chính Cựu Kim Sơn mới là điểm khởi hành của một cuộc hành trình đi tìm chân lý. Trong chuyến trường hành, người lữ khách mới  ngoài hai mươi này cố vượt thoát được những ám ảnh của thất bại, phiền muộn, cô đơn lúc đầu, những cám dỗ, ngang trái về sau, và đạt cho được hạnh nguyện cao đẹp thuở nào.

Từng đặt mình thường xuyên trước câu hỏi để tự vấn tâm: Mình thực sự muốn gì? Người lữ khách trẻ tuổi ấy, lần này chuẩn bị hành trang đường trường của mình thật chu đáo và hợp với tầm nhìn xa. “Ngoại điển” mà bao năm miệt mài chỉ để sở dụng cho công việc hoằng pháp sau này. Đó là những kiến thức liên quan đến việc in ấn, thư viện học (Library technology), Lịch sử (History), Lưu trữ hồ sơ y khoa (Medical record technology), Thuật diễn giảng (Speech communication) cho đến Mỹ thuật (Fine Arts) mà sự công năng của chúng được người học ứng hành ngay ở  ngoài cửa lớp, ngay trong số báo tới, ngay ở buổi giảng pháp gần nhất.

Năm ấy cũng là năm mà Nguyên Thọ có thêm cái “danh” nữa ngoài thế danh do cha mẹ đặt, và pháp danh là tên thầy cho, cái tên cần thiết để ký dưới bài viết. Tờ lưỡng nguyệt san có tên Hương Đạo của Niệm Phật Đường phát hành vào Mùa báo hiếu Tân Tỵ (29-8-1977) có tên Chơn Huệ trong vai trò thư ký. Chức trách không đơn giản như danh xưng vì thực tế cái sở thích văn chương đã khiến chú điệu miệt mài bù đầu trong việc đánh máy bản thảo, tới bốn lần cho mỗi bài, cắt dán, xếp đặt bài vở cho đến việc phát hành, phân phối.

Thực tế, điệu Thọ có đến mấy “bút hiệu.” Chơn Huệ chỉ là cái tên trưng trên “manchette” tờ báo. Bài đầu tay đăng trên số báo đầu tiên kể lại câu chuyện cổ - chuyện vợ chồng Cuội - nhằm làm sáng tỏ, nêu cao đức tính và dương danh người vợ hiền dâu thảo trong đại gia đình của người dân Việt thì ký bằng chính pháp danh Nguyên Thọ ([7]). Pháp danh “kiêm nhiệm” ấy còn xuất hiện dưới những bài đậm đà nội dung giáo lý. Khi thì ung dung nói về hạnh nguyện của vị Bồ tát Quán Thế Âm([8]) . Khi thì gọn gàng, xúc tích nhắc lại tứ ân và bổn phận của người con Phật ([9]). Khi thì thành khẩn trình bày bốn phương pháp sám hối và khuyến nghị phương thức tuân theo ([10]) .

 

Hoặc khái quát được một cách khéo léo một tiền đề khúc mắc trong giáo pháp ([11]). Đáng chú ý nữa là nhân bài nói chuyện năm xưa tại một trại họp bạn mà nêu lên một vấn nạn mang ý nghĩa một công án của thiền gia khiến gây được dư ba trong tâm trí người đọc.([12])

Bút hiệu “chính danh” Hoàng Tùng Phương ký dưới những mẩu chuyện đạo nho nhỏ xoay quanh nhân vật chú Vũ và gia đình, một cách đơn giản và thực tiễn, dẫn dắt người đọc đến gần với cuộc sống dung dị trong đó có phần của đời sống tâm linh ([13]). Ngoại trừ một lần cũng dưới bút danh ấy, nhân dịp tiết Vu Lan, chú điệu Thọ muốn được phơi trải nỗi khắc khoải về mẹ hiện ở bên kia đại dương bằng những dòng chan chứa nhớ thương, những hàng nghẹn ngào lệ nóng. Vu Lan chỉ là cái mốc mỗi năm, còn với điệu Thọ, trong hơn 3 năm qua kể từ ngày lên đường, mỗi ngày là một Vu Lan đằng đẵng “Mẹ ơi! Nhắc đến mẹ, con chợt thấy lòng mình bỗng nhiên ấm lại, cảnh vật chung quanh như bừng lên sức sống. Hình dáng mẹ tựa cửa đứng trông con sau những giờ tan học, suốt một đời an phận với chiếc áo rách vai để nuôi đàn con dại đến tuổi trưởng thành…”([14]).

“Bạn tôi có một hình vóc mảnh khảnh nhưng nghị lực không thiếu, không bao giờ tỏ vẻ mệt mỏi. Phải, mệt mỏi sao được khi bạn tôi dấn thân với một tâm đạo nhiệt thành, với tình huynh đệ sốt sắng sẵn sàng trợ giúp bất cứ ai cần đến”([15]). Một người bạn sống cùng nơi, cùng trang lứa, cùng một hoàn cảnh, và một thời cùng chia sẻ với nhau về những ước  mơ và dự phóng của tuổi trẻ đã nghĩ về điệu Nguyện Thọ như thế khi nhìn lại căn phòng đã vắng bóng người bạn hiền, nơi từng cùng tá túc suốt bốn năm trước khi chú chính thức xuất gia. Nơi ăn chốn ở thì kiệm bạc “một chiếc ghế con, một sạp nhỏ được đóng sơ sài với vài mảnh ván ép,” phong phú chỉ là nắng trời và cái để đọc. “Thôi thì đầy đủ ngăn kệ sắp xếp các sách vở, tạp chí, tài liệu tham khảo theo mẫu tự rất ngăn nắp và xinh xắn. Tuy không hội đủ tiêu chuẩn nhưng phương cách bày biện có hệ thống, chẳng khác gì một đại thư viện.” Người kể có thể vì mến bạn mà quá lời nhưng nếp sống biểu thị một phong cách dung dị và xem trọng một đời sống tinh thần thì không sai. Người bạn tri kỷ của chú điệu Thọ cũng không nghĩ sai khi bâng khuâng giữa cái trống vắng của căn phòng quen thuộc mà chú điệu đã rời bỏ để chính thức bước vào Phật môn, “bạn tôi đã để lại sau lưng

tất cả nhưng cũng có nghĩa là bạn đang mang theo tất cả.” Thực thế, phải chăng cái mà điệu Nguyên Thọ để lại là lưu ảnh của một người có những dự phóng khiến người ta “liên tưởng đến nhân cách và hạnh nguyện to lớn của các nhà truyền giáo[16]

Đến vùng đất mới khi mới ở ngưỡng cửa của lứa tuổi đôi mươi, Nguyên Thọ còn có thêm cái nhiệt huyết của tuổi trẻ, chú có mặt trong những hoạt động phục vụ cho tha nhân khi thì cá nhân đơn độc, khi thì quy tụ thành nhóm Thiện Chí trong những công tác cứu trợ đồng bào thuyền nhân còn lênh đênh tạm cư trên hải đảo, những người đang gặp cảnh cơ hàn bên Ấn Độ. Nguyên Thọ gần gũi hơn ai trong môi trường hoạt động tập thể. Sống chan hòa trong nhóm sinh viên đồng hương ở đại học Cựu Kim Sơn và với những sinh viên bạn khác trong khuôn viên học đường. Môi trường đáng yêu và đáng nhớ ấy cũng cung hiến bao mật ngọt cho đời cho tuổi thanh xuân. Người thanh niên đã phải dành bao nhiêu nghị lực, thoát ra được bao nhiêu thổn thức để đi theo con đường đã chọn. Sợi tóc chẳng vướng được chân người. Những hình bóng năm xưa có khả năng mê hoặc, tàn phá của ngọn hỏa sơn rốt cuộc còn tồn tại chăng trong ký ức như kẻ làm chứng cho lòng thiết thạch của một con người chỉ biết gửi thân theo hạnh nguyện.

Trở về Từ Quang năm 1981 không phải như trẻ “lạc loài” – enfant terrible – quay về tìm một mái ấm mà trước hết là một con người được thực tế rèn luyện, một tăng sinh ưu hạng của kỳ thi thử thách, điệu Nguyên Thọ có dịp thể hiện cái “nội lực” đã dày công trong đó nội điển phần lớn do tự học mà một thời lấy những cuốn như Đức Phật và Phật Pháp do Phạm Kim Thánh dịch, cuốn Đại cương Kinh Lăng Nghiêm của Tâm Minh và Tu Học Phật của Bổn Nguyên cư sĩ làm sách gối đầu nằm. Những lớp Phật pháp mở ra vào tối thứ sáu nơi chánh điện của nhà chùa mà chú điệu Nguyên Thọ có dự phần tổ chức và giảng giải là sự tiếp nối đúng phép và đúng cách của công việc gieo trồng hạt tâm linh cũng là từng bước và từng phần xoay chuyển nhận thức người nghe về những giá trị của đời sống tâm linh, sự cần thiết phải xây dựng và vun trồng nó để từ đó tự thân tìm kiếm những điều chỉnh cần thiết hầu thích ứng với cuộc sống hiện tại.

Những lớp giảng pháp nhiều khi chen chúc người nghe là dịp để Nguyên Thọ thực hành và hoàn thiện những điều đã học, đã suy gẫm. Kỹ thuật phát biểu trước đám đông, việc chuẩn bị đề tài, nội dung, bố cục bài nói ngay cả kỹ thuật trình bày sao cho lôi cuốn sự chú ý của người nghe, tránh phải thấy cảnh họ ngáp vắn ngáp dài, Nguyên Thọ đều vận dụng được từ những điều đã tiếp nhận từ giảng đường đại học.

Cái sáng kiến “ngôi chùa lưu động”([17]) kể cũng thực tiễn với hoàn cảnh đương thời nhưng không bằng kế hoạch “đưa Phật pháp đến tận nhà” trong chương trình thực hiện ngày Quán niệm lưu động. Địa điểm tổ chức là tư gia tùy đạo tâm của chủ nhà có hoàn cảnh cùng phương tiện thích ứng. Những lớp học Phật đều mở đầu bằng thời kinh sám hối và những phút ngồi thiền nhằm tạo sự an tịnh nội tâm trước khi nghe giảng pháp. Bằng sáng kiến thực tế ấy, việc học pháp và tu dưỡng trong không khí thân mật khác thường này chẳng những giúp người có đạo tâm tiếp tục được việc tu tập trong hoàn cảnh đặc biệt mà còn củng cố tình đồng hương và tình tự dân tộc thêm nảy nở giữa những người tham dự.

Không rõ sáng kiến trác tuyệt này thuộc về ai hay đã trở thành sáng kiến chung rồi nhưng tạo được thêm mối tình cảm vững bền ngoài tình đồng đạo thì chắc chỉ có thể phát khởi từ những ngày quán niệm dưới hình thức lưu động như thế. Hương đạo từ đó đã bàng bạc lan xa trong vùng, trong những thị trấn quanh Cựu Kim Sơn, đến những thị trấn vùng Vịnh, tới tận San Jose, Marina nằm sâu trong đất liền, và đã phảng phất tại tư gia lão đạo hữu Quả Trình ở Hayward hơn hai chục năm trước theo ký ức của người tham dự và tổ chức.

1983

Đã sáu năm kể từ ngày thí phát, một ngày lành năm 1977 (ngày kỷ niệm Phật xuất gia), phải gặp một “hội duyên” mới có thể cắm thêm cho mình một cái mốc trên chặng đường đã chọn, Thầy đã nghĩ về chính mình như thế. Đã sáu năm thí phát mà chưa xin thọ giới sa di. Nguyên ủy là sự “hờ hững” của thầy lẫn trò. Trò thì không nghĩ đến “danh phận” nơi cửa Phật vì chưa thấy bổn sư đề cập. Còn Thầy thì quả muốn trông chờ một lời thỉnh nguyện xin thọ giới chính thức của trò mang ý nghĩa của sự xác quyết hiến đời cho Phật. Chỉ đến nhân một cuộc họp của một số cao tăng tại chùa Việt nam, Los Angeles cho kế hoạch thiết lập tu viện Kim Sơn, thầy Thông  Hải mới hốt nhiên nhận ra tình trạng của chú điệu quen thuộc này và gợi ý cho cả  hai đàng.

 

Như thế, Nguyên Thọ không có được sự chuẩn bị cho việc đánh dấu một tiêu mốc trong cuộc hành trình tâm linh mà chú điệu đã dành cho toàn tâm và toàn ý. Vật tùy thân trong buổi lễ phải chạy vạy nhiều nơi. Y thì thầy Hạnh Nghiêm cho mượn, còn dụng cụ lọc nước thì kiếm được đâu đó. Nhưng tiểu giới đàn dành thọ giới sa di diễn ra đầy đủ lễ nghi với pháp tự được ban là Từ Lực - sức mạnh của từ bi – mà một nửa hàm tự danh và tâm ý của bổn sư. Người sa di trẻ ghi dấu “biến cố” bằng  một tấm hình chụp trong chiếc áo nhận bình mới, thứ áo mà các điệu chỉ đứng nhìn mà không được phép xỏ tay, với 4 chữ đề dưới tấm hình, Chánh Nghiệp Xuất Thế.

Quả là từ đây, chú điệu Thọ đã lui vào dĩ vãng. Một chặng đường đã vượt. Không phải vì chiếc áo nhật bình được mặc hôm nay mà là pháp tự mới được mang và những điều cần làm để xiển dương tinh thần và ý  nghĩa của pháp tự ấy.

Hai năm sau, người giới tử khôi nguyên của đại giới đàn Đại Nguyên không còn cái tâm trạng bồi hồi xúc động như ngày thọ giới sa di. Người đã hiểu danh xưng ấy thực tế chỉ là một phương vị được xác định, một quy ước phải tuân thủ, một trọng trách được giao, một lý tưởng phải đạt được.

Đã từ nhiều năm trước, nơi căn phòng trọ đơn sơ trong một phố vắng ở Cựu Kim Sơn, người xuất gia thanh niên ấy không ngừng phác họa những dự án cần thiết cho nhu cầu của đời sống tâm linh đồng thời thể hiện nhiệt tâm và tin tưởng làm ngạc nhiên người đối thoại. Dự phóng năm xưa đã lần lần thành hiện thực khi có được sức mạnh của tình thương khơi nguồn.

Ngày song thập nhất 2005

 

 

Chuyện Người Giới Tử Khôi Nguyên

Con trăng giữa thu đã nhợt nhạt ở góc trời khi tiếng chuông sớm văng vẳng trong thinh không vùng xóm Giữa. Dường như sớm nào bà cũng thức giâc khi tiếng đồng thứ nhất len nhẹ vào không gian và nhập vào làn gió sớm. Ánh lửa bập bùng nơi gian bếp soi tỏ nét phong sương và nhẫn nhịn nơi người phụ nữ tần tảo. Nùi rơm cháy làm bắn ra những tia lửa hoa cà trên tay chiếc áo đổi vai đã ngả màu đất bạc. Sớm nào, bên việc sửa soạn chuyện thường nhật, bà cũng lo ấm nước thứ nhất trong ngày cho bình trà đạm bạc của gia đình sau chén trà sớm đặt lên bàn thờ Phật. Trong cái khoảng tranh tối tranh sáng, sớm nào, bà cũng gửi lòng thành trong mấy lời cầu nguyện cho đứa con trai đầu hiện phiêu bạt nơi xa. Nỗi khắc khoải mà ban ngày bị nhận chìm trong lo toan và bươn bả trong sinh kế, giờ mới trở về như thổn thức. Bà lặp lại bao lần câu thường nói tuy thay đổi khoảng cách thời gian “Rứa mà đã chục năm rồi!”

Trong bóng tối, ánh mắt bà long lanh, loáng ướt đăm đăm về khoảng vườn sau nơi có gốc mai vàng đứng chơ vơ. Gốc mai ấy trổ hoa vào cái Tết năm nào đã là hình ảnh của cảnh đoàn viên trong gia đình. Mấy nhánh mai được đứa con đầu cắt tự vườn nhà khiến cái tết năm ấy thêm chút tươm tất. Giờ đây, đã mười  năm, người ở xa mà gốc mai đã cỗi.

Có người nghĩ thủ phủ của một bang lớn nhất Hoa Kỳ khéo được chọn để cử hành giới đàn lớn mang cái tên Nguyện Lớn. Giữa tháng 9  năm 1985, đại giới đàn được tổ chức tại chùa Kim Quang thành phố Sacramento. Cách thế của nhà chùa trong việc chọn lựa các trưởng tử của Như Lai khiến cho người hoài cổ không thể không nghĩ đến những khoa thi xưa ba năm một kỳ, quy tụ sĩ tử bốn phương về khảo thí. Và, khảo khóa năm ấy đã chọn người sa di, một thanh tăng của chùa Từ Quang, làm giới tử đầu bảng tức Thủ Sa Di, theo cách gọi của nhà chùa.

Rõ ràng là không thấy bồn chồn, nôn nao trong dạ như khi đi thọ giới sa di hai năm trước, nhưng

 

sao chú vẫn trằn trọc. Giờ này, ai nấy đều chìm trong giấc ngủ, có lẽ chỉ trừ mấy pháp hữu sửa soạn “lều chõng” cùng mang tâm trạng như chú. Lần này chú cũng thấy chút tự tin. Rồi, trong lúc miên man ấy,hình ảnh chú điệu và ngôi chùa nơi quê nhà thời thơ ấy hiển hiện như tiềm thức được gọi dậy. Chú là biến thân của chú điệu chùa làng ấy, tiếp nối con đường mà chú điệu này từng đi mấy chục năm trước và hy hữu nữa là con đường mà chú theo tuy song song nhưng cách nhau đến muôn trùng, đến vạn dặm. Chú mường tượng ra sự ngỡ ngàng của mẹ, của người thân trong nhà khi nhận biết việc đầu Phật của chú, chắc hẳn còn xúc động gấp mấy khi biết rằng chỉ còn ít tiếng đồng hồ nữa đây, có thể, chú sẽ được trao cho một phương vị mới nơi thiền môn. Chú thốt nhận ra rằng những cảm nhận mơ hồ năm xưa về một hạnh nguyện nay đã thành sự thực. Chú đã kết nối được cái khoảng cách địa dư giữa quê nhà với nơi trú xứ bằng một niềm tin nơi chánh đạo.

Khi ấy, nắng quái của chiều tà soi tỏ gian bếp đầy bụi bặm trong căn nhà ngói liệt nơi xóm Giữa ở Lương Văn, chỗ người mẹ đang sửa soạn bữa cơm chiều cho gia đình. Gạo ngày một kém và đĩa dưa nưa xuất hiện thường xuyên hơn trong mâm cơm mỗi bữa. Gộc tre già rừng rực trong bếp bắn ra vô số tàn lửa như cảnh đốt pháo hoa. Đốm lửa cũng như hoa đèn được xem như báo điềm may. Vốn cả tin, nên mỗi lần như thế, người mẹ lại nghĩ tới đứa con ở xa. Ánh mắt lại đăm đăm nhìn vào khoảng không và loang loáng ướt.

Không lâu sau giới đàn, người giới tử khôi nguyên ấy xin được rời chùa mẹ để thực hành các chí nguyện ấp ủ từ căn phòng trọ trong một phố vắng ở Cựu Kim Sơn năm nào. Cái chương trình ấy đẹp nhưng bồng bềnh như mây trời, như mùi hương trong gió. Người tăng nhân này chú trọng đến việc xiển dương Phật học qua con đường suy tưởng – hành thiền – và đề ra một số công việc để tiến hành như xây dựng một thư viện Phật học, phát hành một tuần san làm diễn đàn trao đổi, ấn hành sách, tổ chức những hình thức sinh hoạt để những người quan tâm Việt và Hoa Kỳ có dịp trao đổi ý kiến và kinh nghiệm. Chương trình ấy còn bao gồm cả việc tạo dựng cơ sở ấn loát, tiệm sách, quán ăn chay như bước đầu cho việc tự tức kinh tế[18].

Điều đáng nói là dự án ấy đã bỏ quên vấn đề xây dựng Phật giáo qua ngả tâm linh và những điều cần làm để góp phần tái hưng, cải thiện, duy trì và phát triển phương tiện hầu đáp ứng với nhu cầu tín ngưỡng của Phật tử người Việt tại địa phương mà với đa số trong họ, tư tưởng uyên áo của nhà Phật hầu như chỉ tồn tại trong một số ý niệm đơn sơ nhưng đậm nét về luân hồi và nhân quả. Và quả thực, trong quá khứ cũng như hiện tại, người tin Phật vẫn xem cửa chùa là  nơi thích ứng để an trú tâm hồn nhất là khi gặp phiền muộn với con đường ngắn nhất là tịnh độ.

Nhưng, ước mơ của tuổi trẻ trong bản dự hoạch đồng thời bộc lộ được khả năng tổ chức của người soạn thảo nên nó. Người tăng sĩ tác giả đã hoạch định việc phân công, phân nhiệm hợp lý trong ba ủy ban: cố vấn, điều hành, và bảo trợ với sự phối hợp nhịp nhàng cũng như trù định được bốn bước cần thiết cho việc xây dựng tổ chức.

Ước mơ và thực tại có ranh giới riêng của chúng. Người tăng sĩ nhận thức như thế nên điều cần thiết là hành động để hiện thực hóa điều mơ ước và người mang-mơ-ước lên đường.

Hayward được chọn làm điểm dừng chân vì khi ấy còn là một thành phố u tịch và nằm ở giữa hai thành phố lớn sầm uất Oakland và San José.

Cảnh giới tịch mịch thuận tiện cho tâm tư được an dưỡng, cuộc sống được bình lặng nhưng trong điều kiện cư dân người Việt tại địa phương còn thưa thớt, nên, sổ tay kinh nghiệm của người mở lối thu thập thêm sự kiên tâm, trì chí, tiệm tiến và biết thích ứng với hoàn cảnh.

Địa chỉ 2049 Duval chỉ là nơi tạm dừng chân và những người đi trước như lão đạo hữu Quả Trình phải kể như một trong những điểm tựa ban đầu trong việc chuyển di bánh xe hoằng pháp.

Trong căn nhà ba phòng, người tăng sĩ tròn ba mươi thực hiện cuộc sống tự túc với hai “tòng nhân” Quảng Hòa và Quảng Thuận là những thanh niên ngày ngày bận “sôi kinh nấu sử.” Như thế, chỉ còn gian phòng khách là nơi kiêm lãnh mọi công năng của một tổ chức.

Là nơi thực hiện nhu cầu tâm linh: lễ Phật và nghe pháp. Là chỗ sinh hoạt cho đời sống tinh thần: thiền trà và đàm đạo, và về mặt pháp lý là trụ sở của một “pháp nhân” được thành lập đầu năm 1986 dưới tên hiệu: Cơ Sở Nghiên Cứu Phật Học Việt Mỹ (The Vietnamese American Society For Buddhist Studies). Dự phóng ban đầu, như thế, dường như chỉ tồn tại ở danh xưng, bởi, tại đây, việc tu học theo truyền thống của thiền môn được xem như trọng điểm với hai buổi công phu dành cho tăng chúng, với việc tụng kinh và nghe pháp thường xuyên hai lần mỗi tháng và ngày Quán niệm mỗi tháng dành cho quần chúng thiện tín chưa kể kế hoạch soạn thảo nghi thức tụng niệm song ngữ dành cho giới trẻ.

Nhưng, nghĩ như thế chưa hẳn đúng. Trước sau, người tăng sĩ muốn theo đuổi một quan niệm riêng về công việc hoằng hóa với mô thức “mở.” Trong đó, lãnh vực hoạt động không nên và không chỉ thu hẹp trong cộng đồng đồng hương Việt. Việc hoằng pháp không chỉ để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người Việt mà đối tượng hóa độ  nhằm đến cả người bản xứ. Quan niệm như thế tăng nhân sẽ lãnh thêm vai trò của một hạt nhân truyền giáo với đầy đủ ý thức và sứ mạng của người này. Trong hoàn cảnh trên, viễn tượng mà trong đó một phương thức tu trì mới, một nghi thức hành lễ có thể lấy cảm hứng từ tôn giáo bạn sẽ được dung nạp, ngay cả một đối tượng được đặt thêm trên bệ thờ cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên nữa khi mà trong quá khứ, khi du nhập Phật giáo vào nước ta, người tăng nhân hoằng hóa từ phương xa cùng người dân ta đã hồn nhiên chấp nhận không ít dấu vết của tín ngưỡng và tôn giáo bản địa dưới mái nhà của Như Lai.

Nói đến thời gian hành đạo ở Duval Ln không thể quên cuộc di hành của vị tăng sĩ thực hiện qua 16 bang Hoa Kỳ trong hơn 2 tháng trời trong chương trình hoằng pháp lưu động, một trong hai nội dung chính của hoạt động của Cơ sở. Chuyến đi dài chính là được cái khát khao của tuổi trẻ chắp cánh tuy không thể không ghi rằng “ý chính của việc làm này là nhằm vào việc bắc một nhịp cầu thông cảm với những bạn đạo ở các tiểu bang khác để cùng trao đổi kinh nghiệm  tu học ([19]). Chuyến đi này mới thực là cảnh “cô thân vạn lý du ([20]) bởi vì người đi không có kẻ đồng hành và khi trở về Hayward vào ngày 19-10-1987, ngoài chút phong sương của một lữ khách phải có, trong hành trang có thêm được một số kiến văn đáng kể. Nói chuyến di chuyển dài vạn dặm cũng không ngoa vì người đi tuy chọn lên đường vào lúc giữa hạ cũng phải nếm mùi thời tiết đổi thay của toàn lục địa này từ viễn tây sang đông, từ cực bắc xuống cực nam. Chương trình thật phong phú nhưng hầu như tùy cơ. Cái duyên lành là trong cuộc viễn du, được cung chiêm chốn thờ Phật tại những nơi ghé chân cũng như có cơ hội “tham quan cho biết sự tình” tại 22 thành phố. Mỗi chỗ chẳng thể ở lâu cho dù đạo tình buộc phải nấn ná. Chỗ dừng chân lâu hơn cả có lẽ thành phố Roseville, bang Minnesota – nơi tá túc khi sinh thời của Tuyết Ngưu, người nghệ sĩ bậc thầy. Trong khóa tu 10 ngày tại ngôi tự viện Phật Ân của thành phố này, vị tăng nhân của Hayward để lại ấn tượng sâu đậm nơi tứ chúng địa phương mà ba điều khuyên trong bài pháp ứng khẩu còn tồn tại nhiều năm như một bài châm đặt tại giảng đường:

Bớt tham muốn, lòng thường biết đủ

Bớt nói năng, giữ tâm an tịnh

Bớt lo nghĩ, sống đời thanh thản.

Người tăng sĩ quán chiếu không ít việc mình, đời mình khi  nói pháp. Hồi ức về việc phải dùng chiếc mo cau bọc chân trần thay cho đôi dép để vượt qua đồng cát vào một trưa hè gay gắt của một thời niên thiếu là một trong những điển hình về sự cần thiết của một thứ tùy thân mà ta thường quên lãng. Và, ngày nay, hình ảnh giày dép từng đôi xếp ngay ngắn trước thềm chùa hay hiên nhà có chăng chỉ khiến ta nghĩ đến sự ngăn nắp hay cố gắng “ghép vào khuôn” của những người chủ của chúng nhưng ít ai nghĩ rằng việc làm tuy nhỏ nhặt trên lại bao hàm một nghĩa thâm sâu hơn, một hành động đáp ứng, một hình thức báo ân với phía thi ân dù đây chỉ là vật vô tri.

Chuyến di hành của vị tăng nhân không định trước được hết những việc đã làm. Từ xứ tuyết này, vị tăng sĩ có cơ hội đến an úy, chuyện trò với một số trẻ em đồng hương tị nạn không có người thân trong một khu cư trú tại bang North Dakota. Cũng như, sau đó, bất ngờ gặp gỡ một thành phần ưu tú của giới trẻ, đoàn sinh viên Phật tử Nam California, trong một cuộc họp mặt ngắn ngày tại một công viên.

Nói đến khó khăn và thiếu thốn của bước đầu, cơ sở ở Duval cũng đã từng trải qua. Nghi thức tụng niệm chỉ có mấy cuốn, phải sao chụp ra mới đủ cho thiện tín. Cả người tăng sĩ, trong một chuyến đi xa, có lần phải dùng cái nắp xoong như một thứ pháp khí!

“Cơ cầu nhớ dai,” những năm tháng truyền đăng lấy cơ sở Duval làm khởi điểm không chỉ lưu lại ấn tượng chẳng thể quên trong lòng người tăng sĩ chủ trì dù những tấm hình lưu niệm đã xuống màu theo năm tháng. Đó là hình tượng Đức Thế Tôn - vốn là hình ảnh một kim thân Phật nổi tiếng ở Vũng Tàu - một tặng phẩm của nhà thơ Việt Chí Nhân được đặt trên bàn thờ rất mực đơn sơ, sau trở thành một hình ảnh quen thuộc một thời ngự trị nơi chánh điện của Trung tâm Phật giáo Hayward. Đó là hình ảnh của  ngót 40 thiếu  niên quây quần, chen chúc trong gian để xe, tập học, tập viết tiếng mẹ, vừa được “nhắc nhở về tình cha nghĩa mẹ, giúp đỡ bạn bè.[21]” Đó là không khí quây quần và tưng bừng hiếm thấy vào ngày lễ Vu Lan 1987 nơi mảnh sân sau. Với vũ khúc Champa, vũ khúc Ngày Mùa, với những tà áo thắm bên gốc táo sai hoa; màu thắm được chọn nhân ngày xuân như màu đồng phục của tuổi tin yêu, tuổi hy vọng.

Với người thèm xê dịch; đi là sự khát khao không lúc dừng chân. Trong giới tăng già, “du phương” là một tập quán để có cơ hội thâm cứu nội điển, thỉnh thị cao tăng. Còn với người tăng sĩ ở Duval Ln, đi là một trong những khát vọng của tuổi trẻ, đi để mở rộng tầm nhìn, tầm biết, đi để biết rộng thêm ngoại giới. Tóm lại, đi là học hỏi. Người tăng sĩ còn tìm được trong chuyến viễn du rất  nhiều bạn mới, “Dĩ du hội hữu.” Người đã để lại dấu chân tại 22 địa điểm ở 16 tiểu bang trong một hành trình dài hơn 2 tháng, nhưng trước đó, người đã từng thực hiện một chuyến “đi Tây,” Âu du.

Chuyến đi tháng 6-1985 không hẳn đã là cuộc độc hành – cô thân vạn lý du -. Vì lên đường sang Pháp chỉ có một mình, nhưng khi qua Bỉ, Đức để đến Đan Mạch vượt 1250 km thì đã có thêm Thầy, thêm bạn. Những trang du ký ngày nào, khi giở lại, dường như vẫn còn nồng nàn hương gió viễn phương. Nhưng, người viễn tăng lữ khách không đơn thuần là một kẻ thèm đi, thích đời lãng tử. Người muốn đánh dấu ở mỗi chặng di hành bằng ít ra một điều đạt được. Trước hết, người tăng nhân có nhận xét bén nhạy, phân tích tinh tế - đức tính cần thiết của một du khách lịch duyệt. Ít ai có thể nhận ra ngay khi mới đặt chân xuống Paris rằng đường xe chạy hai chiều ở đây chỉ có một lằn phân cách màu trắng ở giữa hay trái sơ-ri được thưởng thức trong bữa cơm đầu tiên tại ngôi chùa Khánh Anh ở Bangeux là thứ cây nhà lá vườn[22].

Người ham xê dịch cũng không thể là người không có óc tổ chức, không biết tiên liệu. Những điều mà người viễn khách đặc biệt ấy ghi lại đây đáng được chép vào cuốn cẩm nang dành cho những người sửa soạn lên đường: “Đi được một đoạn đường chừng nửa dặm thì tôi quẹo trở lại với ý định đi tìm thầy Minh Thân. Chủ đích là hỏi thầy chương trình, thời biểu sinh hoạt ở chùa để hội nhập theo. Cơm ăn giờ nào. Lễ lược ở chùa ra sao? Đi ra ngoài, về cửa đóng thì tìm ai để mượn chìa khóa mà mở. Hoặc giả, cần vài tờ giấy để viết thư thì có thể xin ở đâu. Những việc đó có vẻ lặt vặt,nhưng nếu không tìm hiểu, không biết thì dễ gặp trở ngại trong khi sinh hoạt với tập thể lắm.[23]

Đến khi bước vào giờ giấc tu học của chốn thiền môn thì bản ngã của con người thích lãng du, nếu có thể nói được như thế, cũng không cần để lại ngoài cửa lớp. Do đó, những gì mà vị tăng của Hayward ghi lại được trong một buổi dự thính buổi giảng kinh Viên Giác Trực Chỉ của Hòa thượng Huyền Vi cho tăng đồ chùa Linh Sơn Pháp quốc trong mùa an cư kiết hạ có thể giúp “tục gia” biết được đầy đủ một trong những sinh hoạt của thiền môn. Cách diễn đạt ở mức độ như thế, nếu không có những đức tính của người viễn du thì khó có thể đạt được. Vị tăng sĩ đến tự bắc Mỹ được chứng kiến nỗ lực nối dài truyền thống của thiền môn quê nhà trong sinh hoạt của một tự viện nơi phương tây với 2 buổi công phu triêu mộ, quá đường và thiền tọa dành cho tăng chúng, và lời dặn dò của bậc sư trưởng đáng kính được chép lại như một lời gởi gắm “Thầy làm vậy là cố giữ lại truyền thống Phật giáo Việt Nam tại quê người.[24]

Và, người khách tăng của Linh Sơn, đêm trước khi rời chùa, có thể viết vào nhật ký lữ hành điều đã thủ đắc được “chưa từng có ai không học, không tu mà được giải thoát, an vui[25]” và Linh Sơn có được cái không khí của một chốn tu học điển hình.

Còn trong thời gian ghé đến tự viện Khánh Anh, nơi trú trì của vị cao tăng Minh Tâm, nhìn cái cơ ngơi quy mô và ngăn nắp nằm trong bóng rợp u tịch của hàng cây gợi được vẻ tĩnh mịch của chốn tòng tâm, người khách tăng thầm khen cách tổ chức và cách bố trí nhân sự của nhà chùa giúp công việc trôi chảy, tương tự như cách điều hành một ngôi chùa bên nhà.

Khi ghé nghỉ đêm tại cơ sở của Viên Giác ở Hannover, Đức quốc, nhìn ngắm những sách và tài liệu Phật học được chuyển sang thứ tiếng bản xứ xếp chật trong tủ sách, người viễn tăng có dịp tâm đắc với đường lối hoằng pháp của vị khai cơ này khi nhận ra rằng “người bản xứ sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng và có hiệu quả trong việc hoằng dương chánh pháp ở xứ người.[26]

Và, cũng giống như nhà chùa tích góp từng viên gạch để xây dựng tòa tháp cho chốn danh lam, người tăng nhân trong chốn đi xa để vun đắp cho khối kiến văn sở đắc của mình cũng thu nhặt ở những nơi đã đi qua những điều khả thủ có giá trị như những viên gạch hữu dụng.

Ở phần cuối của một tổng kết sinh hoạt trong năm gửi đi từ Cơ sở Duval, vị tăng sĩ của Hayward viết “chúng tôi không có cao vọng gì hơn là cố tìm, cố tạo một hướng đi cho giới trẻ về phương diện tâm linh và kêu gọi họ tìm về cội nguồn dân tộc[27]”. Đường hướng ấy không phải xuất phát từ tư tưởng bảo thủ hay hẹp hòi bởi vì nó cũng phù hợp với quan điểm của xứ sở này về sự tôn trọng và khuyến khích sự phát triển những nền văn hóa dị biệt vốn được xem như ưu điểm của quốc gia và là thành tố của sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Người vốn quan tâm đến tầng lớp trẻ khi gióng lên tiếng kêu gần như khẩn thiết đã nhận ra rằng, tại đây, trong nhu cầu giáo dục và đào tạo con người một cách toàn diện, dường như khía cạnh đời sống tinh thần và tâm linh còn bị bỏ ngỏ, điển hình là hiện trạng của lớp thiếu niên thuộc về một nền văn hóa khác biệt với bản xứ. Như thế, góp phần vào việc ‘trồng người,” giúp các em tự rèn luyện để có được một nhân cách hoàn chỉnh không chỉ là phần việc của nhà trường mà gia đình và các tổ chức xã hội, tôn giáo cũng cần hợp tác hay dự phần. Một trong nỗ lực ban đầu là nhằm vào việc xây dựng và vun đắp nơi các em một số giá trị căn bản của văn hóa gốc. Do đó đường lối ba điểm được người quan tâm đề ra cũng không ngoài phạm trù trên[28]. Đó là: -1- lấy tình thương yêu của Phật giáo làm nền tảng cho đời sống hàng ngày – 2- tập sống với giá trị văn hóa Việt, và, -3- gần gũi với những sinh hoạt có sắc thái dân tộc.

Gần hai mươi năm qua, ba điểm được nêu trên dường như vẫn còn giữ được thời sự tính. Những nỗ lực đáng quý của người đi sau dành cho lớp trẻ cũng không khác hướng. Điều ấy khiến người đi trước vững tâm hơn ở chí nguyện mỗi khi phải đối diện với trở ngại hay lâm cảnh khó khăn.

Tháng 4-1991, việc hoằng pháp được chuyển về một căn nhà tạo mãi trên đường Calaroga. Từ Duval Ln đến cơ sở mới ở Calaroga Ave chỉ cách có mấy ngã tư đường, chẳng rộng hơn là bao. Bước chân tuy không xa nhưng là hành động cần thiết để xa rời khởi điểm. Sự chuyển di đến địa điểm mới này còn mang ý nghĩa một thuận duyên, như dòng nước tiến đến khúc quanh, chẳng những báo hiệu sự xuôi dòng mà còn gia tăng lưu lượng sông dài trước khi đổ ra biển rộng.

14-6-2006

Dấu Chân Qua

Giọng nói của vị Tăng trưởng ôn tồn, dịu dàng như những lần dặn dò nhà hiếu vừa dứt, tiếng khánh đưa linh nhẹ vang, cùng với lời kinh dẫn đường cho hai trăm lẻ vong linh ký tự tại Trung Tâm theo chân Đức Phật về một nơi hương khói mới. Người giàu cảm xúc sớm hôm ấy dường như cảm thấy không gian chung quanh bàng bạc so với thường ngày, bước chân của người đưa linh như chập choạng bước lần vào cõi u hiển, chỉ thiếu ngọn gió lớn lay động lá phan được hiểu như sự cảm thông và chứng giám từ thế giới tịnh lạc. Khi đoàn xe chuyển bánh, cảnh vật mang không khí bùi ngùi của sự chia tay. Chiếc bài vị sơn son mang ý nghĩa nơi quy tụ chư linh được liệt danh đã an vị trên đôi tay người đạo hữu lão đáng kính. Cửa chùa khép lại. Người quay nhìn còn thấy ánh nắng soi tỏ tấm lịch trong chùa đề ngày thứ Năm 17 tháng 5 năm 2007 tức mồng một tháng tư âm lịch.

Nắng sớm cuối xuân không làm tươi thêm sắc hoa trước thềm chùa. Khóm trúc góp mặt nơi sân trước từ khi chùa ra đời, nay vẫn xanh màu lá. Cảnh vật vẫn u tịch bên vẻ an nhiên của đức Quán Âm mà phong thái vẫn thượng tồn qua trận hỏa tai và có duyên về an vị tại đây hồi năm 1993 do công gìn giữ và tu bổ của thầy Minh Bảo, một pháp hữu đồng khoa của thầy Từ Lực viện chủ.

- Việc thờ chư linh bắt đầu từ khoảng năm 1994 sau khi một đạo hữu có người thân tử nạn tại một tiểu bang xa, Arizona. Tôi đắn đo trước khi nhận lời, từ đó đạo tràng nhận hương khói cho các vong linh được ký tự.

Thoáng đăm chiêu xuất hiện trên gương mặt khi Thầy được hỏi về nguồn gốc của việc thờ hậu của Trung Tâm Hayward mà việc cung tiễn linh rời Trung tâm được cử hành vào ngày sóc tháng tư âm lịch vừa qua còn mang ý nghĩa nghi thức phụng tự sau cùng tại một cơ sở tín ngưỡng vừa được mười sáu tuổi.

Việc ứng phú của chư tăng cũng như thờ linh tại nhà hậu chùa được xem như một tập truyền tại quê nhà và hành vi phụng tự ấy đã khiến một phần giang sơn của Như Lai trở thành từ đường của nhiều gia đình. Nhưng, quan niệm về sinh hoạt tín ngưỡng như trên, ban đầu, không nằm trong chủ trương của Từ Lực sư trưởng, mà khi còn là thanh niên xuất gia, người đã mang ý nguyện và tâm nguyện hình thành một cơ sở tập chú vào việc học thiền và hành thiền với đối tượng không chỉ là người đồng hương tại địa phương. Người đã đắn đo và thực sự đắn đo khi phải rời bỏ một trong những chủ trương ban đầu của mình để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của đại chúng Phật tử, điều có thể giải thích như sự dung hòa cần thiết giữa lý tưởng hạnh nguyện bản thân và thực tế khách quan của xã hội.

Dấu Chân xưa

Mười sáu năm trước, vào một sớm đầu xuân ngày 15 tháng 3, cơ sở Phật giáo trên đường Duval chuyển về ngôi nhà mang số 27878 Calaroga Ave., cách đấy ba ngã tư đường về hướng nam. Người chủ trước của ngôi nhà không ngờ rằng khoảng đất thổ cư mà mình từng sở hữu sẽ trở thành nơi khai cơ cho một đạo mạch và người tăng nhân trẻ tuổi lúc dọn nhà chắc cũng chẳng nghĩ đến việc thiên cư vào đầu xuân ứng hợp với chu kỳ vận hành, tăng trưởng của vạn vật. Sự di chuyển ấy thực ra còn đánh dấu một khúc quanh rõ rệt trong công cuộc hoằng pháp độ sinh của người tăng sĩ mà hướng đi và lộ trình đã được chính người phác thảo từ những năm còn là một học tăng. Sự làm việc miệt mài, nỗi ưu tư và suy tư hầu như thường xuyên cùng với giá lạnh bất thường của tiết đông để lại những nét thẫm trên gương mặt vị tăng sĩ. Người như đăm chiêu hơn khi hồi tưởng lại bước chân mình trên vùng đất này  ngót hai mươi năm trước.

- Sau sự gợi ý của mấy vị tôn đức, tôi quyết định ngưng việc theo đuổi nốt chương trình cao học tại CSU Hayward và công việc làm bán thời gian để dành trọn thời giờ và nỗ lực cho công việc hoằng pháp theo kế hoạch và chương trình được đề ra. Việc di chuyển đến địa chỉ mới ở Calaroga là bước đầu trong việc thực hiện chương trình nói trên.

Thực thế, bốn năm tại cơ sở Duval là khoảng thời gian đủ cho việc gieo trồng hạt giống tâm linh xuống một vùng đất mới. Chính sách tự túc được đề ra trong giai đoạn này là một đáp ứng cần thiết cho việc gầy dựng một cơ sở mà số lượng đạo hữu và phương tiện đều còn khiêm tốn về mọi mặt. Nói cho ngay, quan niệm kinh tế tự túc chưa phải là một sáng kiến của cơ sở Duval, nhưng chính sách ấy được thực hiện trong suốt sơ kỳ hoằng pháp tại đây có thể là một mẫu thích ứng cho việc chuyển pháp luân ở những nơi có hoàn cảnh tương tự. Phong thái an nhiên tự tại của người tăng sĩ trong năm tháng ấy dường như phảng phất qua những hàng trần thuật “điều mà anh em chúng tôi vui nhất là suốt gần 4 năm sống ở ngôi nhà thuê đó, chúng tôi chưa bao giờ bị gián hay chuột tấn công hay chiếm giữ nhà bếp của chúng tôi.” Việc để gián, chuột xuất hiện trong nhà là do nếp sống bừa bãi, luộm thuộm được xem như thuộc tính của giới trẻ nhưng việc gìn giữ vệ sinh, ngăn nắp mà người tăng sĩ tự hào còn hàm ý về sự tự chủ được cuộc sống của những người thường trú tại đây nữa. Nhưng chính sách ấy không còn thích hợp nữa khi mà chương trình hoằng pháp có quy mô hơn được đề ra đòi hỏi sự đóng góp thời lượng làm việc và công sức nhiều hơn của người tăng sĩ.

Tại địa điểm mới, cơ sở được mang tên mới Trung Tâm Phật giáo Hayward (Hayward Buddhist Center), sự hài danh không ngoài mục đích đem lại một danh xưng thông dụng trong sự giao tiếp với chính quyền và với người bản xứ. Thực chất, với người đồng hương và trong bản chất sinh hoạt chính yếu, Trung tâm là một đạo tràng với hai buổi công phu dành cho tăng sĩ và sinh hoạt tôn giáo dành cho thập phương vào hai ngày chủ nhật thứ nhất và thứ ba mỗi tháng.

Trì tụng chân kinh tập nhìn sâu để hiểu

Thực hành chánh niệm nguyện thấy rõ mà thương.

Đôi câu mà vị sư trưởng cho đặt trước tiền diện ngôi Phổ Từ mới được lạc thành vào tháng 7 thực ra là sự khai triển vế thứ nhất của câu thường được lặp lại thường xuyên như một tiêu ngữ của Trung tâm từ ngày khai sinh: tu học Phật Pháp và giáo dục thanh thiếu niên. Chương trình sáu điểm của Trung tâm đề ra vào buổi đầu đã có năm điểm liên quan trực tiếp ít nhiều đến lãnh vực tu học. Với người, sự tu thân chuyển hóa trở thành tiền đề và căn bản cho hoạt động của tổ chức không chỉ với mọi đối tượng mà còn với chính người đề xướng. Tu thân phải đồng hành thường xuyên, khắn khít với cuộc sống, là điều mà vị tăng trưởng đã thiết tha lặp lại trước Phật đài trong buổi kết tập tại Watsonville đêm 20.9.2001 “chỉ có con đường chuyển hóa thân tâm, nỗ lực thực tập mới đưa con lại gần Chánh pháp của Phật.”

Sinh hoạt tu học dưới hình thức ngày Quán Niệm đã được tổ chức thường xuyên vào ngày chủ nhật đầu của mỗi tháng. Ngày Quán Niệm thứ nhất khai diễn vào 15.6.1991, chừng một tháng sau khi Trung tâm khởi sự đặt định giềng mối, nói lên sự nóng lòng của người thực thi xem nhu cầu tu học là sự cứu cấp cho thân tâm càng thực  hiện sớm được càng tốt. Và từ đó, những nỗ lực dành cho tu học có tổ chức dài ngày hơn như Khóa Tu Hai Ngày, Khóa Tập Sự Xuất Gia trở thành định chế tu học thường niên của Trung Tâm. Tuy ra đời không sớm nhưng hoạt động tu học tại địa phương đã được người sáng lập và tổ chức nên nó định chế hóa một cách chặt chẽ và mau lẹ hiếm thấy.

Người đã từng vận dụng đúng cách và đúng mức những điều học được vào việc quản trị, điều hành công việc của nhà chùa cũng là người đã thực thi, vận dụng quan niệm khế cơ vào việc tổ chức khóa tu dài ngày (5-7 ngày) dưới danh xưng Khóa Tập Sự Xuất Gia, một mô thức thay thế khóa Thọ Bát Quan Trai ở quê nhà trong đó đối tượng được nới rộng cho mọi thành phần, mọi lứa tuổi, mọi trình độ và nội dung tu học được soạn thảo phù hợp với nhu cầu phổ cập Phật Pháp đến đại chúng. Sáng kiến ấy đã thu hút nhân số tham dự, có lúc lên đến trên một trăm người mỗi khóa, sử dụng cả ngôn ngữ bản địa, chỉ dấu sự hiện diện của thế hệ thứ 2 và người bản xứ trong số tham dự viên. Người học tu như được khuyến khích đến con đường rộng mở này với món tùy thân quan trọng hơn cả được ân cần nhắc nhở mang theo là tấm lòng nhiệt thành và rộng mở, most importantly, bring a warm heart and open mind, một thông báo của nhà chùa đã ghi như thế.

Mấy năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, sự gia tăng số lượng thiện tín địa phương khiến khu vực hành lễ trong chùa, dù đã được nới rộng, cũng không đủ cung ứng. Sự phát triển hoạt động của tổ chức chẳng những đặt ra vấn đề cần xây dựng một nơi thờ phụng khang trang hơn mà còn đòi hỏi nhân sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng cho đại chúng. Tháng 5 năm 1994, chúng xuất gia được thành lập tại Trung tâm. Về một phương diện nào đó, sự kiện trên là một “biến cố.” Về mặt tổ chức, việc ấy giúp nhà chùa thoát khỏi nỗi khó khăn của thế nhất tăng nhất tự, mặt khác, xác định hoàn cảnh thuận tiện cho việc kế thế, truyền lưu đạo mạch tại địa phương.

Thực ra, từ lâu, người chủ trì Phật sự ở Hayward đã hoạch định và sơ thảo một chương trình đào tạo tăng tài trong đó thời gian đào tạo là sáu năm, để khi tốt nghiệp, người tăng, ni sinh hoàn tất được chương trình đại học của thế học cùng với cấp cao đẳng Phật học.

Từ bấy đến nay, đạo tràng khiêm tốn ở Hayward đã là alma mater của mười sáu vị tăng ni lấy chữ đầu pháp tự là Phổ, trong đó lớn tuổi nhất là Phổ Hòa (82 tuổi) và trẻ nhất là Phổ Ngọc (27 tuổi) cũng vừa thọ đại giới năm vừa rồi. Riêng, vị nữ tu duy nhất thường trú tại Trung tâm, Phổ Châu, xuất gia năm 1998, rõ rệt có khả năng của người quán xuyến công việc hoằng pháp trong một hoàn cảnh khác biệt, với đầy đủ ý thức và sứ mạng của một nhà truyền giáo cho người bản địa.

Trong ba mươi năm nương náu nơi thiền môn, với tinh thần năng động hiếm có, người sư trưởng của Hayward đã tham dự nhiều đại hội hay họp mặt của nhiều tổ chức lớn nhỏ. Tập lưu ảnh ngày một dày thêm và trong muôn ngàn sự việc xảy ra, người khó có thể chọn ra được những dấu ấn nổi trội hơn cả. Nhưng cũng như một người thiền giả từng trải, người nhận ra những ý nghĩa thâm sâu và giá trị không nhỏ từ trong những sự việc xem như tầm thường. Đó có thể là buổi nghe giảng mà người đã thức giác về lẽ trùng trùng duyên khởi, sự tương hợp, tương tác kỳ diệu của tạo vật thể hiện trên từng sinh vật cỏn con như chiếc lá lìa cành hay con sâu rời tổ.

Đó có thể là những đêm thiền trà tại Kim sơn hay một tu viện nào đó, sau khi làm xong vai trò của người trà giả, người đã bất chợt cảm được sau vị ngòn ngọt trên đầu lưỡi của ngụm trà sau cùng “sự thuần khiết và hòa hợp, sự nhiệm mầu của lòng trắc ẩn hỗ tương, tính lãng mạn của trật tự xã hội[29]”, hay uẩn xúc hơn là tìm thấy được trong hương vị thanh đạm của thức uống này tinh túy của tam giáo đồng lưu như có người đã tinh tế nhận thấy “cái kiệm lời ngọt ngào của Khổng, cái chan chát của Lão và hương thanh thoát của Thích Ca Mâu  Ni[30]”.

Đó có thể là những rung động sâu xa của tâm hồn khi bắt gặp được nét tinh anh phảng phất của đóa mộc lan lẻ loi xuất hiện ngoài khung cửa sổ nhỏ của căn phòng guest house ở tu viện Kim Sơn năm nào.

Trái tim trăm nhịp

Vốn là người yêu văn thơ nên sách in đầu tay của Thầy là một sưu tập thơ trăm bài[31], một bó hoa trăm đóa. Hoa được hái từ muôn nơi, do tay người yêu chúng khi người còn ở lứa tuổi thanh xuân đôi mươi. Thơ tìm thấy trên mặt báo được tái sinh lần hồi trong tập vở dưới hàng chữ nâng niu của người. Để rồi, thơ hồi sinh lần nữa trước đám đông bằng chữ in, nhưng cái mà người đọc cảm nhận được không phải là thơ nữa mà là diện mạo tâm hồn của người đã chắt chiu nên chúng. Đây là một sưu tập thơ của nhiều tác giả nhưng giờ đây, với chúng ta, là nhiều mảnh gương phản chiếu tâm hồn của một người vì thơ mà chiếu cố. Không phải bó hoa thâu thập được của ai cũng giống như nhau. Hoa là bóng nước phản chiếu tâm hồn người lựa chọn. Người lạc quan thích chọn hoa mầu hồng, kẻ mơ mộng không bỏ lỡ đóa hoa tím. Với những nhân vật như trong Nẻo Về Của Ý chỉ chọn thuần một thứ hoa rừng, hoa chiều trắng hay hoa sim tím. Còn bó hoa mà người cầm trên tay nhiều sắc hương như chính tâm hồn người.

 

Người đã từng dí dỏm đặt thú yêu thơ bên cạnh cái thú ăn cơm cháy. Điều này chẳng khôi hài nếu ta hiểu rằng cả hai thú trên đều cần đến sự nhẩn nha, chậm rãi khi thưởng thức. Người đã giải thích rằng thơ chỉ gần gũi nếu cảm được người và, với người, thơ được chọn như một dụng cụ làm đậm đà thêm ý nghĩa bài thuyết giảng. Như thế, dầu trong chức năng ấy, thơ cũng là của riêng người. Xem thơ được chọn, người ta có thể hình dung ra phần nào tâm hồn người đã lựa chọn chúng.

Đó là ý thức nồng nàn trước sự nổi trôi của vận nước và thân phận mình, một ý thức thời đại không chỉ của lứa tuổi thanh xuân như người sưu tập mà còn chi phối thành phần những thế hệ trên nữa “lòng ta chan chứa nguồn sinh lực/ quyết tạo mùa xuân đất nước mình.” (Huyền Không)

Đó là nỗi canh cánh về quê nhà, về người thân, nhất là trong thập  niên đầu của cuộc sống tha hương. Nỗi lòng ấy bàng bạc trong lượng bài được chọn khiến người đọc khó có thể phân biệt được đâu là ý thơ của tác giả và đâu là tâm sự mà người sưu tập muốn mượn để gửi gắm “Lại một mùa xuân nơi đất khách. Thương mình những kẻ sống lang thang. Nhìn nhau ánh mắt buồn tê tái. Thầm hỏi: ngày mai xuân đã sang?”

Điều chẳng nên quên là trong quyển tập trăm bài trên, người sưu tập cũng đóng góp một bài, đúng hơn một bức ảnh chụp in trên bìa sách có ý nghĩa của một bài thơ vô tự. Một đóa hoa mộc lan ngoài vườn lấy làm cận ảnh và khung cửa sổ nhỏ của guest house trong tu viện Kim Sơn, nơi mà từ đây người từng thưởng thức đóa hoa tươi thắm.

Có thể, hôm trước, người trở về chùa mẹ để được thêm một lần chìm đắm vào thiên nhiên, nơi có nội cỏ trải thảm đón mời, chim rừng chẳng hề thóc mách. Có thể, nắng sớm đánh thức người với nhã ý muốn người được chứng nghiệm một điều vào buổi tinh khôi của trời đất. Nhưng, đích thực là ánh mắt người đã tao ngộ đóa mộc lan trước sân vườn khi người vừa mở rộng chiếc cửa sổ để đón cùng một lúc ánh nắng ban mai và khí trời ngan ngát hương rừng. Sau phút hội ngộ ấy, có thể, người không dám rời phòng để đến gần bông hoa. Không phải vì ngại bông hoa không có thực mà sợ rằng mình ra khỏi cái thực tại hiện hữu.

Sứ điệp của điều mà đóa mộc lan được chọn để hiện thân có lẽ là giây phút đốn ngộ của tâm tư người mà đóa hoa xinh trở thành tác nhân xúc tác. Điều mà người tỉnh thức đạt được đã không thể hiện trên bức hình ngoại trừ không gian của nó là biên giới dẫn đến sự tỉnh thức. Trong nhận thức như thế, đóa hoa mộc lan tại Kim Sơn mà người tăng sĩ Hayward tương ngộ như trùng vị với bông hoa thược dược bên hàng dậu của Quách Thoại năm nào. Hai tâm hồn, tuy không cùng khởi điểm lại có cơ hội để đồng quy

đứng yên ngoài hàng dậu

em mỉm nụ nhiệm mầu

lặng nhìn em kinh ngạc

vừa thoáng nghe em hát

lời ca em thiên thâu

ta sụp lạy cúi đầu

Sứ điệp mà hoa mộc lan hay thược dược được ủy thác chuyển trao có thể là chân ngôn cần thiết để người hành giả thức giác mà mở rộng chân tâm.

Cây mộc lan và ngôi nhà có cửa sổ nhỏ năm xưa, từ lâu đã tàn trong lửa đỏ. Điều ấy không còn quan trọng nữa khi người tăng nhân đã thấy được điều người muốn tìm và từng khao khát tìm. Ấn tượng ấy hẳn sẽ đến bên người mỗi khi từ tăng phòng Phổ Từ vào đêm trăng sáng, câu thơ mà người cặm cụi chép tay tự năm nào trở về như còn để lại dấu chân qua

như trăng chiếu xuống khắp trần thế

mỗi một con người một đóa hoa

(Huyền Không, sđd, tr. 117)

10.12.2007

PHẦN III

CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO TĂNG NI VIỆT NAM TẠI HOA KỲ

Lời dẫn

Tương tự như công tác giáo dục được tổ chức ngoài xã hội nhằm nâng cao dân trí và cung ứng nhân sự cho việc điều hành mọi hoạt động trong các lãnh vực công hay tư, việc đào tạo tu sĩ trong tổ chức mỗi tôn giáo là nhu cầu thiết yếu hàng đầu cho sự điều hành, truyền bá và phát triển của tôn giáo đó. Mặt khác, những quan tâm đến công việc đào tạo trên phải được xem là việc đáp ứng sự phân công của xã hội trong lãnh vực phát triển đời sống tâm linh và tinh thần con người, góp phần vào sự thăng tiến và an lạc chung của đại chúng.

Do những cơ duyên đặc biệt, Phật giáo theo chân người Việt định cư tại Hoa kỳ, và tuy hoàn cảnh khác nhau, sự phát triển ban đầu đều hầu như giới hạn trong các cộng đồng đồng hương địa phương nên hội đủ những đặc điểm của một tổ chức còn khép kín: trọng truyền thống và dè dặt trước những sáng kiến thay đổi.

Hơn hai thập niên sau, sự phát triển của Phật giáo tại nhiều địa phương biểu hiện bằng sự tăng trưởng số người đến chùa và sự gia tăng sinh hoạt tín ngưỡng và Phật sự, đòi hỏi số tăng sĩ cần thiết đáp ứng, do đó vấn đề đào tạo tăng ni được đề ra. Tuy nhiên, cần phải đặt kế hoạch đào tạo chúng xuất gia trong bối cảnh nhiều mặt của xã hội và cộng đồng, chúng ta mới có đủ dữ kiện để nhận thức rằng kế hoạch trên không chỉ nhằm đáp ứng vấn đề thiếu thốn nhân sự tôn giáo đơn thuần. Đó là, nhu cầu phát triển đời sống tâm linh – tôn giáo mà Phật giáo là một thành phần, nằm trong tiến trình phát triển của xã hội, do đó, kế hoạch và chương trình đào tạo chúng xuất gia cần được quan niệm hình thành trong sự vận hành phát triển chung, nghĩa là cần đáp ứng sự đòi hỏi đi tới của xã hội, không chỉ cho riêng Phật giáo hay giới Phật tử.

Nhu cầu của sự phát triển Phật giáo được thể hiện trong “Chương trình Đào tạo Tăng ni Việt Nam tại Hoa Kỳ” dưới đây nhằm hai điểm sau: (1) giúp hoàn bị năng lực hành đạo của người xuất gia trong tương lai gần và (2) chuẩn bị cho tăng nhân tham dự vào một số lãnh vực theo tinh thần nhập thế.

Như thế, chương trình đòi hỏi nơi chúng xuất gia không chỉ gồm tri thức nhiều mặt được trau dồi mà cả việc khơi dậy khả năng và tiềm năng của mỗi người cần thiết cho sự hành trì sau này.

Trước hết, chương trình đào tạo đòi hỏi học chúng tốt nghiệp, một trình độ tri thức vững vàng: hoàn tất bậc đại học chuyên ngành về mặt thế học (ngoại điển) và bậc cao đẳng về nội điển. Sử Phật giáo, môn học duy nhất được thêm vào chương trình, nhằm giúp cho tăng sinh nhận thức được định luật phát triển Phật giáo và mối tương quan phát triển liên hệ giữa Phật giáo và các giá trị văn hóa khác, nhiên hậu người tăng sinh tìm ra cho mình hướng đi thích ứng với tiến trình phát triển của xã hội và nhu cầu thích đáng của đại chúng.

Điều đáng chú ý nữa là sự bảo lưu trọn vẹn hệ thống Kinh, Luật, Luận y như cựu truyền trong chương trình không có nghĩa đề cao truyền thống theo tinh thần bảo thủ mà chứng tỏ giá trị hiện hữu của hệ thống tư tưởng và tri thức trên đối với tứ chúng.

Sau nữa, sự phát triển xã hội khiến nhu cầu nhiều mặt của tổ chức và của đại chúng nảy sinh, nên sự định hướng học chúng vào ba lãnh vực: trụ trì, giảng sư, và cố vấn giáo hạnh Gia đình Phật tử chỉ là sự gợi ý cho sự thâm nhập của tăng sĩ vào nhiều lãnh vực, thể hiện và phát huy xu hướng nhập thế của Phật giáo đã được chính thức đề xướng từ đầu thập niên 70 của thế kỷ trước.

Phương vị Trưởng tử của Như Lai vốn từ lâu đặt trên vai người xuất gia chỉ là sự xác định trọng trách của tăng sĩ được chuẩn nhận trong việc hành trì. Như thế, bên cạnh vai trò và sứ mạng được ghi nhận là “tu tập duy trì, phát huy và hoằng dương chính pháp, nâng đỡ tinh thần quần chúng bằng lối giảng dạy hoặc bằng phong thái sống của mình[32]”, người xuất gia còn là tác nhân của Phật giáo trong các lãnh vực cần thiết giúp cá nhân, tổ chức, và đại chúng vượt thắng thử thách và thăng tiến đời sống hiện tại.

Chương trình Đào Tạo Tăng Ni 1998 của Trung Tâm Phật giáo Hayward tuy giới hạn trong phạm vi kế hoạch của một đơn vị tôn giáo địa phương và mang dấu vết của điều kiện và hoàn cảnh ra đời vào mười năm trước, cũng không ngoài việc theo đuổi mục đích nêu trên, góp phần đưa Phật giáo hòa nhịp với sự phát triển chung của thời đại.

I. NHẬN ĐỊNH

Trước hiện tình phát triển của Phật giáo trong cộng đồng đồng hương tại Hoa Kỳ, việc hướng dẫn, đào tạo chúng xuất gia là vấn đề cần thiết trước mắt cho mỗi đơn vị Phật giáo địa phương. Trước đây, tùy theo điều kiện tổ chức và hoàn cảnh mỗi nơi, chư vị tôn đức đã mở nhiều khóa đào tạo, huấn luyện tăng chúng, đáp ứng được phần nào nhu cầu hoằng pháp và điều hành Phật sự trong đại chúng. Đó là cơ hội rất đáng mừng cho hàng hậu tiến.

Từ hơn ba năm nay, để ứng phó nhu cầu sinh hoạt tôn giáo và Phật sự tại địa phương và vùng lân cận, Trung tâm đã có những cố gắng thành lập chúng xuất gia, trước để tạo môi trường tu học bên nhau, sau nữa, thử áp dụng và đề cao phương thức sinh hoạt, làm việc sao cho có hiệu quả, với chương trình tu trì kéo dài sáu (6) năm. Nguyên do chính để các chương trình đào tạo người xuất gia lần lượt ra đời tại nhiều nơi là do tình trạng nhân sự, nói rõ hơn là sự thiếu thốn tăng sĩ trong việc hành đạo và truyền bá. Thử nhìn qua một vòng, với hơn 200 ngôi chùa Việt Nam rải rác khắp các tiểu bảng Hoa Kỳ, chưa đầy một nửa là có vị Trụ Trì trực tiếp điều hành sinh hoạt. Còn lại đều do giới cư sĩ lo liệu, từ việc quản trị, tổ chức, cho đến việc phụng tự, sinh hoạt có tính cách tôn giáo và cả giảng pháp. Thiếu vai trò trung gian của người tăng sĩ giữa hai thế giới đạo và đời, những cố gắng đáng kể của chúng tại gia, trong nhiều trường hợp, cũng không đạt được kết quả mong muốn.

Với những người có nhiều thao thức cho tiền đồ chung, câu hỏi còn chưa được giải đáp ổn thỏa là: hai mươi năm đã trôi qua, chúng ta đã đáp ứng ra sao, và thực hiện được những gì về mặt đào tạo nhân sự. Trong hai mươi năm sắp tới, nếu vấn đề nhân sự vẫn tiếp tục được đặt ra thì tương lai đóng góp của Phật giáo bằng những giá trị tâm linh cho thế hệ sắp tới sẽ ra sao? Một chương trình đào tạo chúng xuất gia có khả năng, đáp ứng được phần nào đòi hỏi thời đại, dù muộn màng, vẫn là niềm hy vọng chung cho mọi giới Phật tử.

II. CHƯƠNG TRÌNH TU HỌC

Nhằm góp phần trong muôn một vào việc hóa đạo và chuyển pháp tại Hoa Kỳ trong đó có cộng đồng đồng hương, một chương trình đào tạo Tăng Ni Việt Nam được áp dụng, thực hiện tại Trung Tâm Phật giáo Hayward, và hiện nay, năm 2008, tại chùa Phổ Từ. Chương trình đào tạo gồm hai đặc điểm chính về nội dung và về mặt tổ chức.

1. Về nội dung các môn học, vẫn y cứ theo các tiết mục: kinh, luật và luận. Ngoài ra, có thêm môn Sử phật giáo để học tăng nhận biết sự tương truyền, tương quan giữa các tông phái, hệ phái Phật giáo, tạo cho người xuất gia ý thức không phân biệt màu áo, phương thức tu trì của các tông, hệ phái, hầu đem lại sự cộng tác hành đạo trong thông cảm và hiểu biết lẫn nhau.

Đặc biệt chú trọng phần thực tập nhằm thể nghiệm và áp dụng giáo lý của đạo Phật trong đời sống tu hành thực tiễn.

Ngoài việc am tường nội điển, tăng ni học chúng được khuyến khích trau dồi thêm tri thức về nghệ thuật diễn giảng, nói chuyện, công tác điều hành, tổ chức để công việc hành trì sau này được thuận lợi và có hiệu quả.

2. Về mặt tổ chức, việc học nội điển vẫn cứ theo tinh thần phân làm ba cấp: sơ đẳng, trung đẳng, và cao đẳng. Người mới bắt đầu xuất gia, cần khởi đầu chương trình tu tập của mình từ cấp sơ đẳng.

Thời khóa dành cho việc học nội điển sẽ tùy theo hoàn cảnh mà định liệu. Hiện nay, đa số tăng ni sinh đều theo học chương trình phổ thông ở cấp trung học, hay đại học hoặc các trường chuyên nghiệp, nên không thể dành trọn thời giờ trong ngày cho việc học nội điển. Thời lượng dành cho học nội điển gồm 6 giờ trong một tuần, tức là 3 buổi học.

Ngoài hai buổi công phu trong ngày, học chúng được khuyến khích có mặt thường xuyên trong các buổi tụng kinh, ngồi thiền được quy định, để tín tâm tăng trưởng.

Chương trình đào tạo 6 năm để tăng ni sinh có thể tốt nghiệp bậc đại học của thế học (văn bằng tốt nghiệp cử nhân) khi hoàn tất bậc cao đẳng về nội điển. Học tăng đó có thể xin thọ  Cụ túc giới để tiếp tục con đường tu thân học đạo, phát nguyện độ sanh. Dưới đây là chương trình và môn học của mỗi cấp:

A - CẤP SƠ ĐẲNG:

Thời gian là 2 năm, kể từ ngày nhập chúng tu học. Thường thường, đây là thời kỳ tập sự xuất gia, nghĩa là tập làm quen với đời sống của người xuất gia. Do đó, chương trình đặt nặng vấn đề thực tập trong đời sống hàng ngày, tập theo thanh quy, nội lệ của đời sống thiền môn. Ngoài ra, người phát tâm xuất gia còn được yêu cầu chỉ hớt tóc thật ngắn, giữ liên hệ tốt đẹp với gia đình như là nơi yểm trợ lâu dài, cho đến khi nào quyết định dứt khoát theo đuổi cuộc sống tu hành, lúc đó sẽ được làm lễ thế phát.

a - Phật học

Chương trình học tập có các môn dưới đây:

Kinh: Một số nghi thức thường xử dụng trong chùa, như hai thời công phu, sám hối, quá đường.

Luật: Ngũ Giới, Luật Sa Di, Từng Bước Nở Hoa Sen.

Luận: Nói Với người Xuất Gia Trẻ Tuổi, Thủy Sám hay đọc thêm các tác phẩm được giới thiệu trong Danh Sách 100 tác phẩm Phật học, và tác phẩm của một số tác giả đáng tin cậy.

Sử học: Đường Xưa Mây Trắng, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập I.

Thực tập: Chính yếu là tập sống có chánh niệm, giữ tâm ý thanh tịnh và phẩm cách của một người xuất gia. Tập rửa chén, đi đứng, quét sân, mặc áo, chùi phòng tắm như là những phương pháp tu tập trong đời sống hàng ngày.

b. Thế học

Nếu tiếp tục việc học lên cấp đại học, tăng sinh được khuyến khích chọn môn học, thích hợp với đời sống của người xuất gia, hữu dụng trong việc hoằng pháp lợi sanh sau này nghĩa là những môn học có thể giúp ích, hỗ trợ cho hạnh nguyện cứu đời, làm việc với giới trẻ. Ngoài ra, khi đi học, tăng sinh được khuyến khích ghi danh các lớp học vào các ngày chẵn (hai, tư, sáu), dành các ngày lẻ (ba, năm, bảy) để tham dự các lớp nội điển dành cho người xuất gia được mở ngay tại đạo tràng hay các nơi khác.

B. CẤP TRUNG ĐẲNG

Thời gian là 2 năm.

a. Phật học

Chương trình gồm có các môn dưới đây:

Kinh: Kinh Bát Đại Nhân Giác, Kinh Tứ Thập Nhị Chương,

Đại Tạng Nam Truyền.

Luật: Thập Thiện Giới, Bồ Tát Giới, Diệt Tránh Pháp.

Luận: Phát Bồ Đề Tâm, Cảnh Sách Văn, An Trú trong Hiện Tại.

Sử học: Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập II, Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, Miến Điện.

Thực tập: tập xướng lễ, điều khiển các buổi công phu. Học cách tổ chức thiền trà, thảo luận, tiếp khách.

b. Thế học

Đây là thời gian, tăng sinh phát triển trong ngành học đã chọn, góp phần tạo thành sở đắc và năng lực chuyên môn cần thiết cho hướng đi trong cuộc đời xuất gia của mình. Để việc học ngoại điển có lợi cho việc hành trì sau này, tăng sinh cần lưu ý đến ba yếu tố được nêu ra khi lựa chọn ngành học, môn học: sở nguyện, sở thích sở trường.

C. CẤP CAO ĐẲNG

Thời gian là 2 năm, trong đó có những khóa thực tập, tham học tại các tự viện khác. Trong hoàn cảnh và nhu cầu hiện thời, Trung Tâm hướng việc đào tạo học chúng vào ba (3) mục tiêu hành trì sau:

Trụ trì:

Nắm vững nghi thức, nghi lễ trong các buổi lễ Phật giáo. Hiểu biết cách tổ chức, quản trị, điều hành hoạt động tại một tự viện, tịnh xá. Có khả năng giao tế với Phật tử thuộc nhiều lứa tuổi, thành phần xã hội, trình độ văn hóa… để giúp đỡ họ vững niềm tin vào Phật pháp, chuyên tâm tu học.

Giảng sư:

Nhiệm vụ chính yếu là thuyết pháp trước đại chúng Phật tử trong các dịp lễ lớn, nói chuyện hay thuyết trình về đề tài Phật giáo trước mọi giới trong hay ngoài Phật tử, hay nhằm tới thanh thiếu niên, các tổ chức quy tụ họ, hoặc các sinh hoạt liên can đến thành phần này. Ngoài ra, có thể hướng dẫn các khóa tu tập thiền quán, ngày Quán niệm…

Cố vấn Giáo hạnh Gia đình Phật tử:

Công việc này nhằm hai mục đích: hoằng dương Phật pháp và góp phần tạo dựng niềm tin vào tôn giáo, củng cố truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ. Người xuất gia phụ trách cần là người chia sẻ được lý tưởng, nguyện ước, suy nghĩ của huynh trưởng và đoàn sinh cũng như am tường việc tổ chức và điều hành của tổ chức này thì việc hướng dẫn, nuôi dưỡng tổ chức Gia đình Phật tử mới có hiệu quả tốt.

a. Phật học

Chương trình gồm có các môn dưới đây:

Kinh: Đại Tạng Bắc Truyền, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm Tam Muội

Luật: Khất Sĩ, Tứ Phần, Yết Ma Chỉ Nam

Luận: Đại Thừa Chỉ Quán, Thắng Pháp Tập Yếu Luận, Bát Thức Quy Củ Tụng, Thanh Tịnh Đạo Luận.

Sử học: Việt Nam Phật giáo Sử Luận tập III & IV, Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản và các Tông phái khác. Phật Giáo Hiện Đại tại các nước Tây phương như Hoa Kỳ, Anh.

Thực tập; Hướng dẫn nghi lễ, các khóa tu ngắn hạn. Có thể thay thế điều hành Phật sự tại các tự viện trong lúc quý Thầy vắng mặt.

b. Thế học

Thời gian tăng ni sinh theo học nội điển cấp cao đẳng, có thể cũng là thời gian để học chúng hoàn tất môn học đã chọn với cấp bằng cử nhân ở đại học. Tùy theo điều kiện mỗi người, tăng ni sinh được khuyến khích nên học thêm một số môn học sẽ giúp ích ít nhiều sau này cho công việc hoằng pháp độ sanh của mình như: nghệ thuật diễn giảng, tâm lý quần chúng, hay tổ chức, điều hành. Tại University of the Pacific thành phố Stockton, California, có lớp “Church Operation Certificate program” có thể giúp người xuất gia một số kiến thức thực tiễn và hữu ích về các phương diện kế toán, luật pháp, vận động tài chánh, và thuế vụ.

III. VIỆC ĐIỀU HÀNH

Trong hoàn cảnh và điều kiện của Trung Tâm, chương trình đào tạo được tiến hành như sau:

1. Người tập sự xuất gia thường xuyên được nhắc nhở, được khuyến khích tạo cho mình sự an tâm tối thiểu - một sự thoải mái cần phải có, cũng như tập suy nghĩ, hành động trong nếp sống theo những điều học hỏi được từ kinh điển. Phần kinh điển dùng để trì tụng là phần dịch nghĩa ra tiếng Việt; như thế, học chúng có thể hiểu được ý nghĩa lời Phật, Tổ dạy một cách trực tiếp trong từng lời họ tụng đọc.

2. Trừ những vị lớn tuổi muốn chuyên tâm vào việc tu tập, những người khác được khuyến khích học thêm về ngoại điển, các môn học khác như nghệ thuật nói chuyện trước công chúng, tâm lý quần chúng, tổ chức quản trị hay ngoại ngữ… Tuy vậy, hàng tuần, ai cũng phải tham gia ba lớp Phật pháp dành cho người xuất gia, hoặc tại trung tâm hoặc tại các tự viện trong vùng.

3. Mỗi vị tập sự xuất gia hay sa di được chu cấp y phục, tăng phục, vật dụng cần dùng, phương tiện di chuyển và 50 Mỹ kim mỗi tháng để chi dụng. Riêng chư vị xuất gia đã thọ giới, nhập chúng được đạo tràng hiến cúng 100 Mỹ kim mỗi tháng và tùy duyên nhận tứ sự cúng dường từ mọi giới Phật tử để tu thân hộ mạng, góp tay trong công cuộc hoằng pháp độ sanh. Ngoài ra, đạo tràng đã vận động tài chánh để mua bảo hiểm sức khỏe (basic hospital plan) cho Tăng chúng thường trú tại Trung Tâm.

Đến nay, phương tiện cư trú được cải thiện để nhận thêm 4 vị xuất gia (nam) nữa.

Trung Tâm cũng có kế hoạch thành lập chúng xuất gia (nữ) tuy nhiên vấn đề này còn chờ đợi nhiều nhân duyên khác mới có thể khởi sự được, trong đó có việc thiết lập cơ sở chính thức của Trung tâm Phật giáo Hayward.

Trung tâm đã thiết lập xong Phòng Tĩnh Tâm để hàng tuần ai cũng có thể phát nguyện tịnh niệm, ngắn hạn hay dài hạn, để trưởng dưỡng thiện tâm, nuôi chí xuất trần giải thoát. Dự trù, trong chương trình sinh hoạt của chúng thường trú, ngày thứ tư mỗi tuần là  ngày Tăng chúng thay phiên nhập thất, chuyên tâm quán chiếu nội tâm.

IV. KẾT LUẬN

Thời gian theo học từ cấp sơ đẳng đến cao đẳng được dự trù là 6 năm. Nói rõ hơn, một người từ khi phát tâm xuất gia, với trình độ văn hóa ở cấp trung học, liên tục tu học tại Trung tâm sau 6 năm thì có thể xin thọ giới Cụ túc, trở thành một vị Tăng sĩ thực thụ. Năm cuối cùng, tăng sinh nào cũng phải thực tập để rút kinh nghiệm (work experience) và có thể được gởi đến tự viện hay tu viện khác để thực tập và học hỏi thêm.

Riêng đối với những người xuất gia vào tuổi trung niên và có văn hóa khá cao, lại có tâm chí vượt bực nhờ vào sự tự tu, tự học thì thời gian tu học có thể rút ngắn. Nhưng thời gian tu học tối thiểu kể từ khi phát nguyện cho đến lúc lãnh thọ giới Tỳ kheo không thể dưới 3 năm là thời gian cần thiết sống chung với Tăng chúng để học hỏi và tiếp nhận quy củ thiền môn.

Nghĩ đến việc làm cho ngọn đèn Phật pháp sáng tỏ giữa thế gian, ai lại chẳng mong thế hệ sau có thể tiếp tục nối gót thế hệ trước. Việc hướng dẫn và đào tạo tăng ni Việt nam tại Hoa Kỳ được đề ra như trên, chung quy, cũng chỉ là để đáp ứng nhu cầu và hoàn thành tâm nguyện đó.

Hayward, tháng 5 năm 1998

thichtuluc@yahoo.com

HOẰNG PHÁP THỊ GIA VỤ,

LỢI SANH VI BỔN HOÀI

 

Thư từ liên lạc:            Chùa  Phổ Từ

Compassion Meditation Center

17327 Meekland Avenue

Hayward, California 94541

Điện thoại:                  (510) 481-1577

Điện thư:                     (510) 481-5202

E-mail:                         thichtuluc@yahoo.com

Website:                      www.compassiontemple.org

 

 

 

 

 



[1] Theo từ điển Thiều Chửu: Vật gì hoàn toàn tốt đẹp hay tính chất thuần hòa,vững bền không đổi gọi là lương. Các dấu vết do đạo đức, lễ nhạc giáo hóa mà có được vẻ đẹp rõ rệt gọi là văn.

[2] Trong Đoản văn Lắng Lòng Nhìn Lại, sđd, tr. 195

[3] Trong đoản văn Lắng Lòng Nhìn Lại, sđd, tr. 200

[4] Trong đoản văn Chí Xuất Trần, sđd, tr. 29

[5] diễn văn của Thích Từ Lực trong lễ trao chứng chỉ học Phật cho 27 học viên tổ chức tại chùa Từ Quang SF năm 1983.

[6] Trong Những Ngày Chưa Quên (Lắng Lòng Nhìn Lại, Thích Từ Lực, TTPG, Hayward 1998, tr 1-2

[7] Trong Nàng Dâu Chí Hiếu, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo, SF, số 1, 29.8.1977, tr 23-26)

[8] Trong Quan Thế Âm Bồ Tát với Hạnh Nguyện Từ Bi, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo, SF, số 2, 31.10.1977,tr 21-23)

[9] Trong Bổn Phận Của Người Phật Tử, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo SF số 3, 16.1.1978,tr 24-27)

[10] Trong Sám Hối, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo, SF, số 5, 21-5-1978, tr 46-49)

[11] Trong Một Cái Nhìn, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo, SF, số 4, 21-5-1978,tr 46-49) đề cập về Khổ đề, 8 trạng thái và cách nhận thức.

[12] Trong Một Chút Hoài Nghi, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo, SF, số 12, 5-1980, tr 68-69) kể lại chuyện một thanh niên lơ đãng đi đường va chạm phải nhà sư mà còn lớn tiếng phàn trách ông đã đi nghịch hướng. Nhà sư biện biệt rằng “Không phải tôi là người đi nghịch hướng mà chính anh là kẻ xuôi chiều”. Sự thực, câu chuyện nhằm nêu lên ý nghĩa tương đối của mọi giá trị kể cả chân lý, sự nhận thức tùy ở phương vị của mỗi người.

[13] Nhân vật chú Vũ trong chuyên lưu tâm đến đời sống tâm linh cho mình và cho gia đình sau một thời gian lập nghiệp tại xứ người; định hướng này khiến chú đưa gia đình về sống tại California là nơi theo chú “tương đối có đầy đủ nhơn duyên để gia đình chú ươm hột giống Từ bi, gieo mầm giải thoát” (Quy Hướng Phật Đài, tạp chí Hương Đạo, SF, số 7, 20-10-1978), chú Vũ thuyết phục gia đình về lợi ích của việc đến chùa, nghe kinh, nghe pháp (Sinh Hoạt Cuối Tuần, tạp chí Hương Đạo, SF số 14, 1-1981, tr 31-33) khuyến dụ người nhà siêng làm điều lành, lánh dữ (Cùng Làm Việc Lành, tạp chí Hương Đạo, SF, số 11, 15-1-1980, tr 43-45)

[14] Trong Giây Phút Nguyện Cầu, Nguyên Thọ (tạp chí Hương Đạo, SF, số 6, 18-8-1978, tr 46)

[15] Trong Để Lại Sau Lưng, Nguyên Thuần (tạp chí Hương Đạo, SF số 15, 15-5-1981, tr 46)

[16] Trong Để Lại Sau Lưng, Nguyên Thuần (Hương Đạo, số 15, 5-1981, tr 46)

[17][17] Do TT Minh Đạt gợi ý trang bị một trailer với đầy đủ bàn thờ, pháp tượng, pháp khí và tự khí bên trong rồi lái đến những nơi cần thiết để giảng pháp và thi hành việc Phật (Lắng Lòng Nhìn Lại, Thích Từ Lực, TTPG Hayward, 1998, tr 204)

[18] The Buddhist Center – A Proposal, Thích Từ Lực, 1986

[19] Trong Lập Nguyện Lên Đường, Cơ Sở Nguyên Cứu Phật Học Việt-Mỹ, Hayward, Bản Tin số 1, 15-4-1987, t.1.

[20] Nhan đề một thiên du ký viết về chuyến đi mấy nước Châu Âu năm 1985 của ĐĐ Thích Từ Lực được đăng tải từ số 2 (11-1985) tạp chí Nguồn Sống, San José, CA.

[21] Trong bản Tóm Lược Sinh Hoạt trong năm 1987 do ĐĐ Từ Lực trình bày trong buổi họp thường niên ngày 7-2-1988 tại Cơ Sở Nghiên Cứu Phật Học Việt Mỹ, Hayward.

[22] Trong Cô Thân Vạn Lý Du, Thích Từ Lực, Nguồn Sống, SJ, số 3, 1-1986, t. 128.

[23] -nt-

[24] Trong Một Lần Đến Linh Sơn, Nguyên Thọ, Nguồn Sống, SJ, số 1, 1985, t.96.

[25] Sđd, t.100

[26] Trong Cô Thân Vạn Lý Du, Thích Từ Lực, Nguồn Sống, SJ, số 6, Vu Lan 1986, t.133.

[27] Trong Tóm Lược Sinh Hoạt Trong Năm 1987, Cơ Sở Nghiên Cứu Phật Học Việt Mỹ, Hayward, Bản Tin Số 4, 6-5-1988, t.4.

[28] Trong Vấn Đề Giáo Dục Thanh Thiếu Niên, sđd, t.1, 10.

[29] 100 Bài Thơ của Nhiều Tác Giả, Thích Từ Lực, Trung Tâm Phật Giáo Hayward, 1990, 164 tr.

[30] “It (teaism) inculcates purity and harmony, the mystery of mutual charity, the romanticism of the social order” (Kakuzo Okakura, The Book of Tea, Dover Publications, 1964, 1)

[31] “In the liquid amber within the ivory porcelain, the initiated may touch the sweet reticence of Confucious, the piquancy of Lao Tzu, and the ethereal  aroma of Sakyamuni himself” (sđd, 2)

[32] Thích Đức Nhuận, điều 18, chương III dự thảo Hiến Chế, Phật Học Tinh Hoa, Sài gòn, 1972.



Đánh máy: Michelle, Alice & Helen Nhuận Giai

Sửa lỗi chính tả: Giác Viên


pdf-icon
Tại Sao Tôi Đi Tu _Thích Từ Lực & Trần Mạnh Toàn








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/01/2022(Xem: 5088)
Tuyển tập Hành Hương Tứ Đại Danh Sơn Trung Quốc 2007 do Tu Viện Quảng Đức tổ chức
19/01/2022(Xem: 5336)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 6005)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 4938)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 3852)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 5155)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 3719)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 2868)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 6177)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 17132)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567