Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Băng ngàn

10/04/201312:25(Xem: 6515)
Băng ngàn

phong canh dep

Băng ngàn

Lam Khê

Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó. Dân trong vùng cũng đang bị nạn dịch cúm. Lúc này mọi người kéo nhau vào rừng tìm hái cỏ thuốc, và những gì có thể ăn được cho qua cơn đói lạnh ngặt nghèo.

Xung quanh một hang động nhỏ, người ta phát hiện khoảng đất rộng mọc đầy các loài dược thảo, cùng mấy luống khoai bắp đậu cà trái mùa đang ra hoa kết nụ. Tất cả đều mọc thẳng tắp như có bàn tay ai đó gieo trồng vun quén. Nhiều ngày rồi, ai qua lại nơi đây đều nhìn thấy một vị đạo sĩ ngồi tịnh niệm dưới gốc cây sồi già, trời lạnh như cắt với đầy sương sớm gió chiều, nhưng thân hình người vẫn bất động, an nhiên. Người ta nhận ra đó là vị tu sĩ lúc trước vẫn hay vào trong xóm, tay xách một giỏ đầy thuốc đến tận nhà chữa trị cho dân làng, và từ chối những thực phẩm mà bịnh nhân cúng dường tạ ơn. Ông biết mọi người đang đói. Trận bão lũ đã cuốn trôi hết hoa màu. Bịnh dịch lại lan tràn nơi vùng sơn cước hẻo lánh cách xa phố thị đến mấy ngày đường.

Không ai biết vị ẩn sĩ đang lưu trú tận nơi rẻo núi cao heo hút này. Có lẽ lâu nay ít người vào sâu trong rừng. Mà cũng bởi Ông là người từ miền xuôi đến, rồi cám cảnh ở lại tịnh tu và trồng các loại hoa màu để giúp dân làng. Mà sao Người cứ ngồi yên, mắt nhắm nghiền mãi thế kia. Ai đó đọc ra tấm biển nhỏ ghi ngoài bìa rừng “ Dân làng cần dùng thứ gì cứ tuỳ tiện hái mang về”.Ngưòi ta chỉ vào xin một ít lá thuốc, tuyệt không dám làm kinh động đến sự yên tịnh của Người.

Rồi một buổi sớm, Ẩn sĩ cũng xả thiền. Dường như mùa xuân vừa đến. Hoa cỏ nhuộm một sắc màu yên vui đằm thắm. Cư dân đã qua trận bịnh tật, lại trở nên sung sức hơn nhờ ăn những củ nhân sâm hái từ khu vườn của vị đạo sĩ. Nhà nhà giờ đây đang tưng bừng trong lễ hội mừng xuân. Vị Tu Sĩ mỉm cười trong ngày đầu năm đối diện với cảnh vật hữu hình. Những tia nắng xuân ấm áp soi sáng cả một góc hang động thâm u lạnh lẽo. Bỗng Người nhìn về phía khu rừng. Thấp thoáng có một bóng người từ xa. Một cô gái trẻ mặc váy bằng vải thổ cẩm màu sặc sở đang rẽ vào con đường mòn. Khi đến bên vị tu sĩ cô quỳ xuống, lấy ra từ trong làn giỏ mây một ít trái cây dâng lên. Khi ngước lên, cô hơi bất ngờ vì thấy tu sĩ nhìn mình chăm chú. Vị tu sĩ quan sát cô gái nhỏ, rồi bất ngờ kêu lên: _ Đông Sơn….

Cô gái ngạc nhiên, ấp úng:_ Thưa…. Ngài …vừa gọi tên của mẹ con. Xin hỏi vì sao ngài lại biết ?

Vị tu sĩ ngần ngừ giây lát rồi bỗng cười lớn. Nụ cười thoải mái tự tại mà dường như là để che dấu điều gì đó.

_ Năm xưa Ta từng đi ngao du đây đó. Và một lần ghé qua miền núi non cách trở này, ta có gặp cô gái Đông Sơn. Rất giống cô bây giờ. Thời gian thắm thoát. Đã hai mươi năm rồi còn gì. Vậy mà ta ngỡ như mới hôm nào. Không ngờ. À! Mẹ cô bây giờ …vẫn khoẻ…chứ?

Gương mặt cô gái buồn buồn :_Thưa…Mẹ con mất cách đây hơn năm rồi. Mộ mẹ nằm ngoài bìa rừng. Hôm cuối năm đi tảo mộ, con mới biết có ngài ẩn tu ở đây….

Cô gái lớn lên nơi miền sơn cước hoang dã lại có nét đẹp diệu dàng như cánh hoa rừng khép nép mà sắc hương lan toả. Nhìn vóc dáng và tên gọi, không ai nghĩ cô là người dân tộc. Mà cũng thật như vậy. Cha mẹ Đông Sơn vốn là người Kinh, cùng lên miền núi công tác, gặp gỡ nhau mà nên duyên cầm sắt. Sau khi đứa con gái ra đời được đặt tên là Đông Sơn, thì hai vợ chồng cùng mất trong một lần dịch bịnh. Đứa bé được dân làng nuôi nấng và rồi cũng lớn khôn theo năm tháng, trong trắng thơ ngây, rực rỡ giữa mây ngàn gió núi. Cô thích múa thích ca, thích hái hoa rừng về điểm trang thêm cho vẻ đẹp hoang sơ mà đằm thắm của mình. Tiếng hát trong trẻo như chim Sơn Ca lại uỵển chuyển như mây trời lãng đãng của cô gái tuổi trăng tròn từng làm rung động bao trái tim chàng trai trẻ khắp miền Trung Du một thời. Núi rừng ngàn năm ắt hẳn sẽ mãi yên bình trong tâm hồn cô gái, nếu như…Ôi! Giá như sự đời không tồn tại hai từ này, thì con người ta đâu phải thốt lên lời hối tiếc muộn màng, chứa đựng bao niềm đau, bao nỗi xót xa khoắc khoải…

Năm đó có một đoàn y sĩ từ miền xuôi đến khám bịnh cho dân làng. Một chàng trai thông minh đỉnh đạt được đề cử lưu lại thêm một thời gian khi đoàn rời đi. Chàng tên Hiền Minh, là y sĩ mới ra trường. Nhiệm vụ của chàng là huấn luyện cấp tốc một lớp y tá cho buôn làng. Đông Sơn có tham dự khoá học ấy. Thế là chuyện tình cảm xảy ra giữa đôi trai tài gái sắc là điều không tránh khỏi. Mãn khoá học, chàng trai trở về Thành Phố. Rồi cũng từ đó, Đông Sơn mất đi vẻ trinh trắng hồn nhiên của loài hoa dại chốn đại ngàn. Giọng hát của chim Sơn Ca cũng vắng tiếng mà thay vào đó là đôi mắt nâu đượm buồn của nàng sương phụ cứ dõi nhìn về phía chân trời thăm thẳm. Nhưng người ra đi đã không một lần quay trở lại.

Sau đó thì Đông Sơn hạ sanh một bé gái. Một lần nữa buôn làng sẵn lòng dang tay đùm bọc lo lắng cho hai mẹ con cô, như ngày xưa cô đã ra đời và được dưỡng nuôi nơi miềm sơn cước thấm đậm nghĩa tình này. Bao năm tháng, hoa rừng vẫn rộ nở. Ghềnh thác cheo leo và núi non hữu tình đã tạc nên một vóc dáng xinh xắn, trọn vẹn công dung ngôn hạnh cho đứa con gái có mẹ không cha. Buôn làng bây giờ đã thay đổi nhiều. Có trạm xá đầy đủ các phương tiện tối thiểu. Có trường phổ thông Trung Học nội trú ngoài thị trấn chỉ cách ven rừng hơn vài cây số. Có con đường Quốc lộ chạy dài dọc miền xuôi ngược. Nhìn con lớn khôn ngoan hiền học giỏi, Đông Sơn lấy đó làm nguồn an ủi lớn lao cho đời mình. Đứa con gái đựơc kết tinh nên từ vẻ đẹp rực rỡ hoang sơn của mẹ cùng sự mẫn cảm thông tuệ của người cha cũng sớm trở thành niềm tự hào chung cho cả buôn làng, cho cả núi rừng cây cỏ.

_ Mẹ con làm y tá nơi trạm xá xã. Một lần mẹ vào tận núi sâu để cứu một sản phụ sanh khó, rồi bị tai nạn mất. _ Cô gái nói tiếp sau khi kể lại câu chuyện về cuộc đời của người Mẹ- Con cũng sắp tốt nghiệp khoá đông y. Trong năm khi dân làng bị dịch bịnh, thầy đã ghé về đây cứu chữa bằng các loại thảo dược. Con rất thích theo học hỏi mà không dám…

_ Được rồi. Ta sẽ truyền dạy cho con những gì mà ta biết… như ngày xưa… à này! Mẹ con ắt là oán hận và đau khổ nhiều lắm. Bởi kẻ đã quất ngựa truy phong ngày đó? _ Vị Tu Sĩ có vẻ xúc động khẻ hỏi.

_ Dạ không. Mẹ vẫn thường hay kể chuyện về Ba cho con nghe. Mẹ không có chút gì oán hận ông ấy cả. Mẹ bảo: “ Ông ấy chắc có nỗi khổ tâm riêng nên đã không quay trở lại. Một người Thành Phố có gia thế danh vọng giàu có lại là con một_ Theo như lời Ba nói ấy mà, thì ít gia đình nào chấp nhận có một nàng dâu mồ côi lại là người dân tộc xa xôi này. Vả lại người đàn Ông đó cũng không hề biết là mình để lại giọt máu rơi ở nơi này. Có một đứa con với người mình thương yêu, thế là đủ. Mẹ không còn mong muốn gì hơn.

Vị Tu sĩ chìm sâu trong suy tưởng. Người đang tịnh niệm hay nghĩ ngợi về chuyện thế sựï đa đoan đầy khổ lụy của kiếùp nhân sinh. Không thể đoán định được qua vẻ mặt trầm tĩnh dù có thoáng lên đôi chút dao động khi lắng nghe câu chuyện. Cô gái vẫn miên man kể như một lời tâm sự chôn kín nay mới được dịp thố lộ:_ Bây giờ con chỉ có một mong ước… là được gặp Ba. Dù chỉ một lần duy nhất trong đời. Dù không được gọi lên tiếng ba theo lẽ thường tình…

_ Con tên là gì ?_ Tu Sĩ đột ngột mở mắt ra hỏi.

_ Dạ con tên Băng Ngàn. Mẹ bảo có một lần Ba nói nếu có con gái sẽ đặt tên là Băng Ngàn. Ýù nói ba đã băng ngàn vượt suối gặp mẹ ở đây.

Vị Tu Sĩ lại cười. Nụ cười hiền từ mà ẩn khuất xa xôi. Người lặng ngắm nhánh mai rừng mà ai đó đem đặt bên Thạch động chiều qua. Tu sĩ đã tận hưởng một mùa xuân yên tịnh của núi rừng muôn thuở diệu kỳ. Dòng suối bấy lâu nay khô cạn, bỗng dâng tràn như ghềng thác lũ…để rồi tuôn chảy qua bao mảnh đời thực thực hư hư.

Vị Tu Sĩ nhuốmbịnh đã mấy hôm rồi. Hằng ngày Băng Ngàn nấu cháo và sắc thuốc đem đến. Người vẫn ngồi thiền bên ngoài Thạch thất và chỉ nhấp chút cháo loãng. Đến ngày thứ ba, người mở mắt bảo với cô gái:_ Ta sắp đi rồi. Chỉ tiếc là chưa truyền dạy hết ngành thuốc cho con, lại chưa kịp dạy về đạo lý tu học. Nhân duyên gặp con chỉ bấy nhiêu. Ta chỉ có ít sách thuốc để lại, con hãy đọc và thực hành theo đó để làm lợi ích cho nhân sinh. Điều tâm huyết cuối cùng của Ta là… ước mong con vẫn sống tốt đẹp như núi rừng ngàn năm vang vọng, với những gì mà mẹ con đã sống, đã chắt chiu cho con cho đời, dùø có ta hay không ở cõi đời này.

Thế là Người yên lặng ra đi thanh thản khi mùa xuân vừa hết. Mọi người hoả thiêu người ngay bên Thạch Thất. Băng Ngàn giữ lấy nắm tro tàn dựng lên một ngọn tháp nhỏ thờ phụng kính bái. Cô ở lại luôn nơi đó. Hằng ngày đọc kinh điển, ngồi thiền và nghiên cứu sách thuốc cùng lo trồng tỉa và chế tác các loài thảo dược đem lại trạm xá giúp dân làng có bịnh. Không ai biết tung tích của vị ẩn sĩ khi Người đến cũng như lúc ra đi, ngoại trừ Băng Ngàn. Cô gái của chốn núi rừng lại có huyết thống với vị Tu Sĩ vừa thị tịch.

Những cánh chim Sơn Ca lại rộn rã tưng bừng hát vang bên khu rừng dược thảo. Một am thất nhỏ. Một trạm xá cùng bóng một Ni Cô diệu dàng cần mẫn vào ra chămsóc cho bịnh nhân xóm núi. Con đường phố núi vừa thông thương, lòng người thôi không còn lo cách trở vì băng đèo vượt suối. Người muôn năm trước cũng đã quay về, để chốn ngàn sâu mọi sự sống vẫn không ngừng tiếp diễn… theo dòng thời gian.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5089)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11204)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9386)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7765)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3781)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6342)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87247)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6637)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4868)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]