Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cánh Hạc Mùa Đông

10/04/201312:17(Xem: 5423)
Cánh Hạc Mùa Đông

muadong_1

Cánh hạc mùa đông.

Lam Khê

Mùa đông về làm cho ngọn đồi thông thêm rộng thoáng. Không một chiếc lá cây rơi rụng. Không một bóng người lui tới để nghe tiếng bước chân dẫm dài trên đá sỏi. Không gian im vắng và thanh tịnh là thế; vậy mà mấy hôm nay bỗng nhộn nhịp đông đúc hẳn lên. Tiếng đại hồng chung từ ngôi chùa vang xa trầm ấm, đã trở nên một nhịp sống thiêng liêng quen thuộc đối với người dân ở quanh vùng. Du khách thập phương cũng ghé lại nhiều hơn để nghe Sư Ông thuyết pháp và tham quan chiêm ngưỡng mấy ngôi mộ cổ mang tính lịch sử của một thời vua chúa xa xưa.

Chú tiểu nhỏ bước ra sân quét dọn. Trời vẫn còn sớm, đầy sương mù và lạnh căm căm. Chú nhìn sang ngôi tịnh thất nhỏ có hàng chè tàu được cắt tỉa gọn gàng. Sư Ông đã đứng đó tự bao giờ. Người lớn tuổi lắm rồi. Một vẻ gầy gầy xương xương trông bộ đồ nâu bạc cũ, nhưng trông người vẫn còn phong độ qua dáng đi khoẻ mạnh tự tin, qua ánh mắt tinh tường, nụ cười đầm ấm an lạc. Và một giọng nói mang âm sắc nhẹ nhàng truyền cảm đặc biệt của người viễn xứ vừa trở lại Quê nhà sau nhiều năm xa cách.

Thầy đứng đó. Từ khi hồi chuông công phu khuya mới điểm, cho đến lúc hừng đông tỏ rạng, nhuộm thắm cả cánh rừng thông phía trước. Chiếc áo nhật bình khẻ run lên theo làn gió bấc hiu hiu se lạnh. Nhưng Thầy vẫn đứng yên, như sợ khoảng trời đầy riêng tư thơ mộng này vụt trôi nhanh theo tầm mắt. Ở đây lòng người không buồn theo cảnh sắc, mà cảnh sắc đang muốn thu hồn người vào đó. Một chuyến trở về thăm quê mang ý nghĩa nhiều hơn những gì Thầy mong đợi. Hình ảnh ngôi chùa làng còn in đậm nét rêu phong từ thời còn hành điệu. Những dãy nhà ngói, khu phố cổ ẩn mình bên hàng chè tàu mà năm tháng càng phô trương thêm vẻ kiều diễm khuất kín. Bao năm rồi cánh nhạn phong sương tung mây lướt gió. Có biết bao là cảnh đẹp, những kỳ quan vào bực nhứt thiên hạ, những công trình mang tầm cở của thiên niên kỷ mới. Vậy mà làng nhỏ quê nhà cứ làm lòng Thầy bâng khuâng náo nức mỗi lần nghĩ đến.

_ Bạch sư Ông, người choàng thêm chiếc áo khoác vào… kẻo trời còn lạnh lắm.

Thầy quay lại mỉm cười nhìn chú Tiểu, không cảm thấy phiền hà vì giòng tư tưởng bị cắt đứt:

_ Cám ơn chú. Cái lạnh này chẳng thấm vào đâu so với nhiều nơi thầy đã sống. Thầy muốn tìm lại chút cảm giác thân quen khi trở lại quê nhà đấy mà.

Không gian bỗng vang lên tiếng hót rộn ràng của muôn loài chim chóc. Những cánh chim mùa đông vẫn tụ về làm tổ trên những cành cây cao. Có lẽ vì đây vẫn còn nguyên sơ cảnh núi rừng yên ổn, chưa bị tàn phá bởi bàn tay con người và cơ chế máy móc. Cả cánh rừng lúc này trông như tấm thảm bạc trải rộng. Một vài khoảng trống vàng nhạt của nền trời xen lẫn tạo nên một khung cảnh hài hoà nên thơ mà dịu ấm. Ôi! Thầy đã từng nhìn thấy nhiều khu rừng thông tuyệt đẹp; những mùa đông đầy tuyết trắng, những đồi cây ẩn hiện trong màn sương bạc mênh mông. Vậy mà những cành thông mộc mạc quê nhà vẫn cứ mang một hồn sắc riêng trong lòng thầy. Nơi toả bóng cho một thời tuổi thơ yên ấm mà ước nguyện thanh cao vời vợi. Nhưng rồi cánh chim xanh lại sớm lìa xa tổ ấm…

Một chiều đông rét buốt. Có đứa bé trai từ vùng duyên hải cát trắng xa xôi xuôi về Thành phố rồi đi ngược ra ngoại ô, dừng chân lại trên ngọn đồi cao khi trời vừa xâm xẩm tối. Cậu bé lần bước lên từng bực thềm đá, tai lắng nghe tiếng tụng kinh trầm trầm vang lên từ ngôi chánh điện. Suốt buổi tối cậu ngồi nép sát vào hiên chùa để cố trốn những cơn gió bấc lùa về, nhưng hàm răng vẫn đánh mạnh vào nhau, bụng đói cồn cào, hai bàn chân sưng rộp và đau nhức. Thời kinh dứt đã lâu. Cánh cửa chánh điện kín mít chỉ toả ra chút ánh sáng tù mù từ mấy ngọn đèn dầu leo lét. Cậu bé vẫn ngồi yên, tợ như đang ngủ gục, cho đến lúc thầy tri khách bước ra sân đóng cổng:

_ A! cậu bé nào ngồi ở đây ri ? Trời tối rồi sao không về nhà?

Thầy dẫn cậu vào bên trong nhà Tổ. Sư trụ trì đang ngồi trên sạp gụ lần chuổi hạt.

_ Bạch Ôn… Chú nhỏ này không biết con nhà ai lại đến ngồi ngoài hiên chùa từ chập tối…

Sư mở mắt ra nhìn cậu bé đang ôm bên mình chiếc túi xách nhỏ. Người nhỏ nhẹ cất tiếng hỏi, những hạt chuổi đen tuyền vẫn lướt qua đôi tay gân guốc-:

_ Con từ đâu tới? Bỏ nhà đi phải không ?

Cậu bé run run phần vì lo sợ, phần vì lấy làm lạ_ Không hiểu sao Sư Cụ lại đoán biết:_ Dạ bạch Ôn …nhà con ở dưới quê xa. Con muốn đi tu. Xin Ôn cho con được ở lại đây.

_ Cha mẹ con còn không? Làm sao lại biết nơi này?

_ Dạ thưa… Con thích đi tu mà ba mạ không cho, vì con là con trai duy nhất. Tháng trước có một huynh trưởng về quê con sinh hoạt, nói chùa này có nhiều chú điệu đến tu và chỉ dẫn đường đi…

Thầy tri khách tiếp lời:_ Em ngồi co ro bên chái cửa. Con không ra, đến sáng chắc chết rét.

Ôn lặng lẽ ngắm cậu bé, lòng nghĩ ngợi miên man. Thằng nhỏ trông vẻ mặt khôi ngô mà đôn hậu. Vần trán cao với cặp mắt thông thái chứa đầy nhuệ khí, lại có lòng can đảm tánh chất trực đáng quý. Nếu tu được ngày sau ắt sẽ làm lợi ích cho đạo pháp đây_ Về sau Ôn mới nói ra điều suy nghĩ này. Lúc đó người chỉ ôn tồn bảo với thầy tri khách:_ Cậu bé chắc bụng đói lắm rồi, thôi theo thầy tri khách xuống nhà trù dùng cơm. Rồi thầy đưa lên nhà giảng ngủ, nhớ lấy chăn và áo đưa cậu mặc thêm cho ấm. Chuyện gì rồi ngày mai hẳn tính.

Sáng trở dậy Cậu bé ra sân phụ quét dọn và lau chùi bàn ghế. Mấy chú Tiểu thấy người lạ hơi bở ngỡ chốc lát, rồi nhanh chóng làm quen nói cười thân mật như bạn bè thân thiết từ lâu_ con nít mà. Dù có chút rụt rè, nhưng sắc mặt cậu bé cũng tươi tỉnh hớn hở hẳn lên. Cậu đến bên hiên chánh điện, lòng thầm khấn nguyện….

…. Sau khi dùng điểm tâm, Sư trụ trì cho gọi cậu bé vào hỏi:

_ Con tên là gì? Vì sao lại trốn nhà đi tu? Hãy nói rõ về gia thế cùng những suy nghĩ của con cho Ôn nghe thử xem.

_ Bạch Ôn…Con tên Hoà, học lớp sáu trường làng. Con vẫn thường theo các O chú dưới quê đi chùa và sinh hoạt cùng gia đình Phật Tử. Con muốn được như mấy chú điệu ở chùa tụng kinh làm công quả và tu học cho đến ngày giải thoát. Con cũng mong ước sau này khi lớn lên được như quý ôn quý thầy làm những điều lợi ích cho chúng sinh…

Sư cười lớn, khẻ gật đầu nói:_ Khá lắm, Con còn nhỏ mà đã có tư tưởng như vậy. Hãy giữ mãi tâm niệm ban đầu này. Còn bây giờ…theo phép nhà chùa, thì người xuất gia phải có sự đồng ý của gia đình. Vậy con cứ tạm thời ở đây, vài hôm nữa quý thầy sẽ tìm liên lạc cho cha mẹ con biết. Được hay không còn tuỳ duyên cùng lòng kiên định của con. Thôi con ra ngoài để quý thầy chỉ dạy thêm. Àø… để Ôn đặt cho con pháp danh là Thuận Nguyên, mong là việc xuất gia tu học của con rồi đây sẽ được thuận buồm nguyên vẹn.

Chú tiểu Thuận Nguyên được xuống tóc để chỏm sau đó không lâu. Chẳng phải êm xuôi gì nhưng vì lòng chân thành mến đạo và kiên quyết của chú bé nên cuối cùng cha mẹ đành chấp thuận gởi con cho sư ông trụ trì. Lúc ấy chùa có mở lớp gia giáo dạy kinh cho chúng điệu nơi bổn tự cùng những chùa lân cận đến xin học. Thuận Nguyên cũng như mấy chú ở chùa vừa được đi học văn hoá ở ngoài vừa học đạo tại chùa. Chú nhỏ tuổi và hiền lành hơn cả, nhưng học hạnh thì cần mẫn thông minh lại khiếm tốn hài hoà, nên sư phụ, quý sư huynh rất yêu mến. Hết bậc trung học, thì chú cũng có chút vốn liếng nội điển cơ bản. Sau đó Sư Phụ cho phép chú cùng nhiều huynh đệ đồng trang lứa thi vào Viện Đại học phật Pháp ở Sài Gòn. Con đường xuôi nam tu học của chú xem ra khá là thuận duyên thẳng tiến.

Tuổi trẻ chứa chan niềm nhiệt huyết, tâm chí cầu đạo toả sáng, học hạnh kiêm ưu, trí năng càng hiển lộ. Thuận Nguyên lại nung nấu biết bao tâm nguyện. Muốn xây dựng một đội ngũ Tăng sinh mang tinh thần nhập thế. Muốn đưa con thuyền đạo pháp vươn đến tận cùng mọi đời sống nhân sinh xã hội. Muốn cải tổ hệ thống giáo dục Tăng Ni v..v. Nhưng Phật Giáo gặp thời pháp nạn, chịu sự kỳ thị và đang không ngừng đấu tranh đổ nhiều xương máu. Với sự năng nổ của vị tăng vừa rời ghế Phật học Viện, nhưng tiềm lực bên trong chưa đủ, trợ lực bên ngoài không mạnh, một định hướng tốt cũng khó được hình thành lúc này.. Ngày xưa Tổ Đạt Ma gặp thời tao loạn mà quyết chí đem đạo pháp truyền sang đông độ. Tổ Huệ Năng thì thọ nhận pháp ấn đi về phương nam hành hoá. Thầy đâu dám ví mình có đạo lực uyên thâm và chí hướng cao xa như chư tổ, chỉ ước nguyện một đời xả thân vì đạo vì đời, mong đem ánh sáng chơn lý đạo mầu soi tỏ khắp cùng nhân thế.

Ngày thầy trở về chùa đảnh lễ sư phụ để ra đi, Người vẫn ngồi lần chuổi niệm Phật trên bộ phản giữa nhà tổ, mắt hướng về mấy chậu cúc vạn thọ nơi bục cửa. Mùa xuân còn bỏ ngỏ mà lòng người đã sẵn sàng ra đi. Thầy nhớ mãi ánh mắt từ hoà thương cảm khi Sư Phụ nhìn mình như nhìn chú bé ngày đầu tiên tay ôm bọc áo quần đến chùa xin ở lại tu. Những lời nói của Sư phụ ngày ấy, thầy đã mang theo trên mọi bước đường du phương hoằng hóa.

_ “Khi Sư Phụ nhìn vào đôi mắt thông minh cương nghị của chú bé mới vào chùa đã đoán được phần nào. Rồi đây chú sẽ làm nhiều lợi đạo ích đời. Rồi đây chú sẽ mang chí nguyện vươn xa khắp mọi chân trời. Nay chính là lúc con phải ra đi rồi. Thầy chỉ có mấy lời, là mong con luôn giữ vững tâm nguyện xuất gia ban đầu. Đạo tâm vững, chí nguyện sâu thì dù ở đâu cũng có thể hoằng pháp lợi sanh. Đi xa, cũng là dịp tốt để con có tầm nhìn rộng thoáng và thiết thực, từ đó sẽ có định hướng đúng đắn, sẽ kiến tạo nên một sự nghiệp lớn, phù hợp với màu áo và tâm hạnh của người xuất gia…”

Chuyến ra đi ngày ấy, chỉ dự kiến một thời gian. Ai ngờ … phải mất gần non nửa thế kỷ Thầy mới có dịp trở về thăm lại quê hương. Vị Bổn Sư khả kính đã viên tịch. Ngôi chùa Tổ cổ kín theo thời gian vẫn yên vị trên ngọn đồi thông lộng gió. Các vị sư huynh sư đệ người còn người mất, ai đến ai đi chắc cũng thấu hiểu sự trở về mang đầy ý hướng tốt đẹp của Thầy. Một đời vân du trong cõi người ta, những nơi Thầy đi qua đã trở thành niềm ký ức khó quên cho lòng người khi đến. Nhiều nơi đã trở thành trung tâm Phật giáo quy tụ nhiều tín đồ học Phật đầy đủ mọi màu da chủng tộc. Nhưng điều thầy đạt được hơn cả là không đánh mất niềm tin cùng sự kỳ vọng của thầy tổ huynh đệ, của bao thế hệ người đã và đang tận lực hy sinh cho đạo pháp và dân tộc này.

Hơn nửa đời người làm thân lữ thứ, Thầy luôn tự ví mình như cảnh chimViệt cành Nam. Con người ta…ai chẳng một quê hương để nhớ tưởng, để quay về khi xế chiều lặn bóng. Quê hương Thầy là đây; là nơi trở về trong tâm thức có ánh đạo từ quang soi sáng. Quê Hương này từ lâu đã sống trong cảnh thanh bình yên ấm. Đạo pháp vẫn mãi trường tồn trong lòng dân tộc. Bao ước nguyện một thời của vị Tăng sinh trẻ nay gần như đã được hình thành. Ngày trở về… Thầy những mong góp chút hạnh nguyện cuối đời cho sự phát triển đạo pháp nơi quê nhà. Cánh buồm xưa đã xuôi về bến cũ.

Thầy bước lần ra sân…. cùng đến chấp tác với chúng điệu, góp thêm nắm đất vun cho mấy chậu hoa đang kết nhuỵ. Những vẻ mặt hồn nhiên tươi tắn trong bộ đồ bạc thếch lấm tấm mồ hôi bùn đất. Có ai đó vừa nhìn thấy hình ảnh ngày nào của chú tiểu Thuận Nguyên. Bên thềm đá sỏi vẫn còn in rõ dấu chân nai một thời thơ dại. Vài cánh chim Hạc vừa bay qua nền trời. Mùa xuân sắp về rồi. Chim Hạc ắt hẳn cũng muốn quay về… với nơi chốn bình yên muôn thuở.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3633)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13053)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4247)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 5013)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 10242)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4744)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6099)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7532)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 31980)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5432)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]