Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngựa Nòi Thông Minh (thơ)

29/03/201709:51(Xem: 10604)
Ngựa Nòi Thông Minh (thơ)


con_ngua_10

NGỰA NÒI

THÔNG MINH

 

Thành Ba-La-Nại thuở xưa

Ở miền bắc Ấn có vua trị vì

Quốc vương nhiều ngựa kể chi

Nhưng riêng một ngựa kia thì tuyệt luân

Ngựa nòi, giống tốt vô ngần

Lớn to, mạnh mẽ thêm phần thông minh

Ngựa từ nhỏ đã khôn lanh

Chưa cần nghe lệnh sai mình tới lui

Đoán ra ý đó ngay rồi

Quốc vương khen ngợi: "Ngựa nòi thông minh!"

Ngựa nòi nổi tiếng trong kinh

Quốc vương đặc biệt tận tình lo toan

Chuồng thời lộng lẫy trang hoàng

Thơm tho, sạch sẽ, khang trang vô cùng.

Trung thành với chủ hết lòng

Ngựa còn can đảm oai phong hàng đầu

Quốc vương quý ngựa từ lâu

Bao nhiêu tin tưởng đặt vào ngựa thôi.

Một ngày u ám đầy trời

Thành Ba-La-Nại rối bời tóc tang

Bảy vua các nước lân bang

Kết liên gây chiến dàn hàng tại đây

Họ mang lính tráng bủa vây

Quân hùng, tướng mạnh chuyến này phô trương

Nào voi, nào ngựa rộn ràng

Nào xe, nào lính vũ trang đầy mình

Vua Ba-La-Nại hoảng kinh

Vội vàng triệu tập triều đình lại ngay

Họp bàn tìm kế hoạch hay

Hầu mong chống đỡ với bầy xâm lăng,

Họ khuyên vua: "Chớ đầu hàng

Cùng nhau chống trả ngoại bang đến cùng

Ta cần bảo vệ hoàng cung

Giữ gìn ngôi vị quốc vương nước nhà,

Thoạt tiên mình hãy cử ra

Một viên võ tướng tài ba hơn người

Đã từng vô địch lâu đời

Thay vua chiến đấu tại nơi chiến trường

Nếu không thắng được đối phương

Thời ta mới để hoàng cung dự phần

Bấy giờ bệ hạ đích thân

Trổ tài ra trận cầm quân diệt thù."

Lời nghe hợp với ý vua

Nên ông quan võ từ xưa đứng đầu

Giữ ngôi vô địch đã lâu

Quốc vương triệu tới cùng nhau luận bàn

Quốc vương lên tiếng hỏi quan:

"Liệu rằng có thể phá tan giặc này?"

Ông quan võ trả lời ngay

Muốn rằng có được ngựa hay để dùng:

"Nếu mà bệ hạ đồng lòng

Hạ thần xin được cưỡi con ngựa nòi

Khôn ngoan can đảm lâu rồi

Chắc là sẽ thắng tại nơi trận tiền!"

Quốc vương đồng ý nói liền:

"Hỡi quan vô địch tôi hiền trung trinh

Ta luôn trông cậy vào khanh

Cùng là ngựa báu thông minh tốt nòi

Cứu nguy vương quốc này thôi

Tùy khanh định liệu chuyện nơi chiến trường!"

*

ngua noi thong minh




Ông quan nhận lệnh quốc vương

Vội vàng đi tới nơi chuồng hoàng cung

Ngựa nòi ăn uống vừa xong

Được mang đầy đủ yên cương trên người

Khoác thêm áo giáp bên ngoài

Cùng đồ trang sức rạng ngời châu thân

Ông quan kỵ mã tới gần

Cúi chào ngựa quý muôn phần nghiêm trang

Rồi leo lên cưỡi hiên ngang

Một người, một ngựa phóng sang phía thù

Ngựa nòi thông thái từ xưa

Hiểu ra tình thế rất ư hiểm nghèo

Nhủ lòng: "Quân địch quá nhiều

Lân bang bảy nước hò reo vây thành

Ngựa, voi, vũ khí, tinh binh

Nước mình cùng quốc vương mình nguy nan,

Quốc vương nhân ái vô ngần

Lại thêm tin tưởng trăm phần nơi ta

Ta đâu có thể lơ là

Để quân địch thắng trận mà đành tâm.

Nếu ta giúp đỡ ông quan

Để rồi tàn sát địch quân chuyến này

Bảy vua bị giết tại đây

Tức là ta đã tiếp tay hại người

Sát sinh phạm tội mất rồi

Xấu xa như vậy ta thời tránh xa,

Dịp này ta muốn đưa ra

Một lời giáo huấn cao xa tuyệt vời:

Không nên giết hại ở đời

Bảy vua bị bắt sống thời mới hay

Mới là chuyện vĩ đại thay

Mới là chiến thắng tràn đầy vinh quang!"

Những suy tư đẹp vô vàn

Ngựa bèn thổ lộ với quan cưỡi mình.

Rồi xông ra trận nhiệt tình

Sau khi quan sát chung quanh chiến trường

Chồm lên dậm cẳng hí vang

Lao vào đột kích đối phương tưng bừng

Tự tin, mạnh mẽ, kiêu hùng

Địch quân hốt hoảng tìm đường tháo lui.

Đoàn quân thứ nhất thua rồi

Vua thời bị bắt, quân thời bị tan

Bất ngờ, nhanh chóng, dễ dàng

Tránh đường chém giết bạo tàn như xưa.

*

Thế rồi lần lượt các vua

Đều thua chiến trận cũng như người đầu

Sáu vua bị bắt giống nhau

Giải vào giam giữ trước sau trong thành

Tưởng như sắp dứt chiến tranh

Nào ngờ lính nọ nấp rình một nơi

Dùng gươm đâm lén ngựa nòi

Bên sườn máu đỏ tuôn rơi dầm dề

Hằn sâu thương tích nặng nề

Khiến quan kỵ mã nghĩ suy ngại ngần

Lòng can đảm chợt tiêu tan

Nghĩ rằng: "Ngựa yếu khó ngăn quân thù

Địch quân kia khó đánh thua

Đạo quân thứ bẩy có vua kiêu hùng,

Ta nên chọn một ngựa thường

Phủ ngoài áo giáp, yên cương sẵn sàng

Cũng to lớn, cũng hiên ngang

Để thay cho ngựa nòi đang thảm sầu!"

Nghĩ xong ông chẳng chờ lâu

Lệnh thay thế ngựa truyền mau ra rồi.

Tuy đang đau đớn thân người

Ngựa nòi thấy vậy mở lời can ngăn:

"Thưa ông, ông có biết chăng

Nếu ông xử dụng ngựa thường như xưa

Giết nhau mong chuyện hơn thua

Thì dù thắng cũng bằng thừa mà thôi

Sát sinh đã tạo nghiệp rồi

Vinh quang chốc lát, luân hồi dài lâu

Xin ông hãy xét lại mau

Ngựa nòi thuần chủng đứng đầu là tôi

 

Riêng tôi giúp được ông thôi

Xông vào trận tuyến đủ tài tấn công

Phá tan hàng ngũ địch quân

Mà không sát hại một nhân mạng nào

Bắt vua thứ bảy. Lành sao!

Chiến tranh chấm dứt biết bao an bình!"

Ông quan nghe ngựa khuyên mình

Nghe xong ông lại lên tinh thần rồi

Theo lời ngựa thi hành thôi.

Ngựa nòi gắng gượng vươn người đứng lên

Vết thương băng bó kỹ thêm,

Chở quan kỵ mã trên yên kiêu hùng

Với đà cố gắng phi thường

Ngựa lao trở lại chiến trường hăng say

Đạo quân thứ bảy phá ngay

Đồng thời bắt sống vua này êm xuôi

Hết xâm lăng! Hết nổi trôi!

Chiến tranh lắng đọng, khắp nơi thái bình.

*

Ngựa nòi trầm trọng bệnh tình

Quốc vương nhỏ lệ, thân hành đến thăm

Ngựa bèn trịnh trọng trối trăng:

"Tôi xin được một đặc ân cuối cùng

Hòa bình khi tái lập xong

Đừng thêm đổ máu mới mong lâu dài

Tôi xin trông cậy ở ngài

Ra tay phóng thích, triển khai tâm từ

Thả luôn tất cả bảy vua

Lân bang chung sống coi như một nhà!"

Nói xong ngựa duỗi mình ra

Từ từ nhắm mắt lìa xa cõi trần.

Quốc vương cùng với quan, quân

Xót xa nhỏ lệ muôn phần tiếc thương,

Thả vua bảy nước lân bang

Về sau chung sống trăm đường bình yên,

Cùng nhau hỏa táng ngựa hiền

Khắp nơi vang vọng lời khuyên nhân từ.

*

(NHẬN DIỆN TIỀN THÂN:

Ngựa nòi giống tốt và thông minh

là tiền thân Đức Phật.

Vị quốc vương là Ananda.

Người cưỡi ngựa là Xá Lợi Phất.)

 

TÂM MINH NGÔ TẰNG GIAO

(thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi

THE GREAT HORSE KNOWING-ONE

của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43924)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4493)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4414)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4330)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6456)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4754)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4173)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25605)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24440)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21588)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]