Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện con bò vàng

10/04/201312:12(Xem: 8968)
Chuyện con bò vàng

dongque 4_thuymacCHUYỆN CON BÒ VÀNG

Lam Khê

---o0o---

Ngày ấy tại một vùng kinh tế mới xa xôi.

Trong ngôi chùa lá nhỏ nằm gần một con suối nhỏ, thầy trò tôi đã có một đời sống tu hành đạm bạc yên vui. Sáng sáng thầy cùng các vị sư huynh ra vườn cuốc đất trồng cây. Tôi mới hành điệu, lại yếu ớt nên được phân công lo chuyện cơm nước. Những chiều nắng gắt hoặc mưa dầm, thầy thường dạy chúng tôi học giáo lý, học chữ nho. Cuộc sống cứ bình lặng trôi qua như thế….

Một lần có người đem đến cho chùa một con Bê. Thầy tôi nhận nuôi với ý định lấy phân chăm bón cho vườn cây trái mới gầy dựng. Thầy vốn rất yêu thương loài vật, nên xem con Bê như một thành viên mới trong chùa. Thầy giao nó cho hai chú điệu Hạnh Tri, Hạnh Lễ chăn giữ. Khi con Bê được một năm tuổi thì nó đã trở thành một con bò mộng to lớn,với bộ lông màu vàng óng ả. Thầy tôi thuờng vuốt ve và gọi nó bằng cái tên “Vàng”thật là trìu mến. Thầy còn nói nó là con Bò có bộ lông đẹp nhất, còn đôi mắt rất đỗi hiền lành trong sáng như trẻ thơ .

Riêng tôi thì không hề ưa thích nó chút nào cả. Tôi luôn thấy nó dữ dằn đáng sợ. Với đôi chân khỏe khoắn, lúc nào nó cũng sẵn sàng đá vào bất cứ ai tiến đến gần. Nó lại còn phe phẩy cái đuôi đáng ghét, vừa như đang tự mãn sau bữa ăn, vừa như muốn xua đuổi hết mọi vật xung quanh mình.

Tôi thật sự ghét nó nhất kể từ hôm thầy tôi bất ngờ bảo tôi cũng phải thay phiên đi chăn Bò. Do hai chú điệu cứ phân bì với tôi. (thế còn việc bếp núc trong chùa, tôi có bao giờ nạnh hẹ với mấy chú đâu). Tôi cảm thấy uất ức, chưa biết phải nói gì thì thầy đã ôn tồn bảo:

_ Hai chú nhỏ ham chơi quá, cứ để Bò dẫm nát ruộng vườn của người ta. Con lớn hơn phải có trách nhiệm nhắc nhở và phụ giúp mấy chú trông coi con Vàng dùm thầy .

Tôi không thể cãi lời thầy, nên đành làm một kẻ chăn Bò bất đắc dĩ. Công việc thì không lấy gì làm khó nhọc lắm. Mỗi chiều tôi chỉ việc ra mở cửa chuồng (tôi chỉ giữ buổi chiều ) cầm sợi dây ràng nơi mũi nó, dắt đếùn một bãi cỏ nào đó rồi buộc dây vào một gốc cây. Sau đó bỏ mặc cho nó tha hồ gặm nhắm những cọng cỏ non xanh mướt. Tôi cũng đi tìm một bonùg cây im mát, ngồi xuống mở Kinh ra học. Hoặc có lúc tôi thả tâm tư mình dõi theo những áng mây trời bàng bạc trên không, hay nhìn ngắm mấy dãy núi cao xa tít phía chân trời.

Nếu mọi việc cứ mãi bình lặng như thế thì không có việc gì phải nói. Bởi lẽ bản tánh con Vàng không được hiền lành lắm như thầy tôi đã nhận xét. Mỗi khi có cơ hội thì nó liền tìm cách thóat đi, để được tung tăng chạy nhảy hết khu vườn này đến đám ruộng khác cho thỏa cái chí bình sinh. Thế rồi cái chuyện để Bò dẫm đạp ăn lúa bị người ta đến chùa mắng vốn không chỉ xảy ra một vài lần. Dĩ nhiên tôi bị quy trách nhiệm nhiều nhất. Tôi hặm hực lắm và nghĩ cách phải tống khứ con Vàng đi cho sớm .

Một hôm, lại có người đến mách với thầy là đám bắp mới ra hoa của họ bị Bò phá nát.Thầy tôi buồn bực ra mặt. Vì sợ thầy quở trách, lại muốn trút hết những gì đè nén lâu nay, tôi liền mạnh dạn bước đến thưa trước với thầy :

-Con thấy con Vàng không đem lại chút lợi ích nào cho chùa cả, mà toàn gây ra những chuyện phiền phức. Thôi thì Thầy nên bán quách nó đi, lấy tiền mua phân bón cây mà được việc hơn, và chúng con cũng khỏi phải đi chăn giữ cực khổ.

Trước những lời nói ngây ngô của tôi, thầy chỉ trầm ngâm im lặng. Ít lâu sau, có một người ở xóm trên đến thưa chuyện gì đó với thầy Khi ông về rồi, thầy mới gọi mấy huynh đệ tôi đến nói :

- Thầy sẽ giao con Vàng cho ông Hai nuôi giữ . Rồi ông sẽ cho lại chùa vài xe phân bò và một ít cây giống. Từ nay các con không phải chăn giữ nó nữa

Tôi mừng lắm, nhưng vẫn làm bộ băn khoăn ái ngại hỏi thầy :

- Nhưng ông ta có làm thịt nó không thầy ?”

_Không ! thầy đã hỏi kỹ rồi mới bằng lòng. Ông đem nó về nuôi chung với mấy con bò ở nhà để lấy phân. Thầy thấy ông cũng hiểu đạo…

Tôi biết thầy rất qúy con Vàng. Nay phải đem giao cho người khác là việc bất đắc dĩ. Tuy có chút áy náy, nhưng tôi cảm thấy nhẹ hẳn người. Thế là từ nay tôi sẽ không còn phải lo lắng khổ sở vì chuyện con bò vàng này nữa .

Ngày người ta tới bắt nó, các huynh đệ ai cũng chạnh lòng lưu luyến. Con vàng dường như có linh cảm điều gì, nó cứ ghì chặt lại không chịu bước. Hai người thanh niên vạm vỡ mà cũng không làm lại. Đến lúc này, thầy tôi mới đến gần vỗ vỗ vào lưng và nói với nó mấy câu gì đó. Rồi thầy quay lại bảo với chúng tôi:

-Các con hãy đưa nó một đoạn. Có người quen dắt nó sẽ chịu đi.

Tôi nhanh nhẹn cầm lấy sợi dây đi lên phía trước. Hai chú điệu cũng đi kèm theo hai bên lưng nó. Con Vàng nặng nề bước từng bước theo chúng tôi. Thỉnh thoảng nó chùn chân như muốn quay đầu lại. Tôi nhìn vào đáy mắt trong đượm vẻ buồn bã của nó, nhưng vẫn không chút cảm niệm gì cả.

Khi về đến cổng nhà, ông Hai vội dành lấy sợi dây trên tay tôi rồi nói :

-Thôi để bác dẫn nó vào nhà được rồi. Các chú trở về chùa đi.

Tôi ngước nhìn vào nhà ông qua hàng rào dâm bụt, thấy ngoài sân có rất nhiều người, họ đang sửa soạn gì đó và có vẻ nhốn nháo lắm .

Con Vàng lại trở chứng không chịu đi theo người chủ mới. Mấy người trong nhà chạy ra phụ lôi kéo và đánh tới tấp vào mông con vật. Con Vàng kêu rống lên và cố trì lại. Tôi thấy bất nhẫn quá mà không biết phản ứng ra sao. Cảm giác có điều gì đó bất thường, nên tôi chưa vội ra về.

Sau đó những gì xảy ra quả thật quá sức tưởng tượng của tôi lúc bấy giờ. Ở giữa sân họ đã giăng sẵn một sợi dây thừng. Khi người ta dắt bò đi ngang qua sợi dây, một người khác đã đứng gần đó giựt mạnh sợi dây làm cho hai chân trước của nó ngã khụy xuống. Một người khác thì cầm con dao nhọn hoắc nhào tới đâm vào cổ con vật. Một dòng máu phun bắn lên …đỏ thắm. Cả một đám người vây lấy con Bò tội nghiệp. Tôi thoáng thấy một vài người bà con của mình cũng có mặt ở trong đó .

Con Vàng vẫn chưa chết. Nó kêu lên mất tiếng thảm thiết cuối cùng, rồi giãy giụa một hồi. Trước khi nằm yên nó còn kịp quay đầu nhìn ra ngoài. Lúc này tôi nhìn thấy rất rõ hai hàng nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt của nó. Mọi người phấn khích bận rộn đến những miếng thịt sẽ được dự phần, nên không ai buồn chú ý đến chúng tôi. Bàng hoàng vì cảch tượng khủng khiếp vừa xảy ra, hai chú điệu ù té chạy về chùa. Còn tôi vẫn đứng chết lặng tại chỗ. Chứng kiến cảnh con Vàng bị phân thây xẻ thịt mà lòng quặn đau như chính mình đang bị người ta đâm xé vào ngực .

Lần đầu tiên tôi xúc động thật sự khi nhìn thấy những giọt nước mắt rơi ra từ con bò. Lần đầu tiên tôi cảm thương sâu sắc bởi cái chết thương tâm của nó; và lần đầu tiên tôi thấy người ta tàn ác như thế như thế nào khi hạ thủ một con vật vô tội. Cái chết của con Vàng đã biến thành một bữa tiệc ngon cho cả xóm. Trong đó có những người mà thầy tôi thường tin tưởng. Thầy chắc sẽ đau lòng lắm và trách mình sao quá tin vào sự chân tình của người khác. Nhưng nếu tôi không hối thúc quá, không bê trễ công việc và không quá ích kỷ thì thầy không phải quyết định vội vàng như thế.

Cả ngày hôm đó và rất nhiều năm sau này, tôi vẫn không làm sao quên được ánh mắt của con Vàng. Lúc biết mình đã rơi vào tay người xấu, nó nhìn tôi chỉ thoáng vài giây thôi mà đầy vẻ trách móc buồn bã. Trái tim của một con thú rồi cũng biết khóc. Nó khóc cho sự dã tâm và nhiều toan tính của con người. Nó khóc vì không làm sao thóat được thân phận phải làm miếng mồi ngon cho miệng thế. Tôi cảm thấy mình có lỗi thật nhiều. Có lỗi với thầy, với con Vàng, và với tâm nguyện xuất gia ban đầu của mình. Thầy tôi không nói gì cả.Mãi mãi vẫn không bao giờ nhắc đến chuyện con bò Vàng ấy nữa. Nhưng tôi thì không cho phép mình được quên. Tôi nhớ để luôn tự nhắc nhủ với lòng mình rằng :Một sinh vật dù nhỏ bé vô tri cũng cần được sống, được bảo vệ đùm bọc bằng tấm lòng nhân ái của con người.

Bài học đầu tiên của tôi về tình thương đối với muôn loài cũng bắt đầu từ đấy.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5087)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11193)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9375)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7750)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3776)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6329)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87203)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6632)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4858)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]