Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đường hoa đạo

10/04/201312:11(Xem: 3295)
Con đường hoa đạo

canh dep

Con đường hoa đạo

Lam Khê

Một bóng người thoăn thoắt bước đi, thỉnh thoảng quay đầu nhìn ra hai bên đường đầy vẻ tư lự. Lúc này vần trán thanh tú khẻ nhíu lại, trầm ngâm nghĩ ngợi. Thanh gươm đeo bên người lập loè sáng trong ánh nắng chiều đỏ quạch, càng mang dáng dấp của một chàng tráng sĩ thời thượng. Khi rẽ sang một con đường khác, Tráng sĩ chợt dừng chân reo lên: _ “Lạ thật, nơi heo hút này lại có con đường rộng thoáng băng xuyên cả qua ngọn núi. Con đường đầy hoa, mà ai đã trồng lên dường như mang một ý nghĩa gì đó.

Trời tối từ lâu, nhưng Mạnh Trí- tên tráng sĩ _ vẫn còn loanh quanh dưới chân núi. Cơn đói đã qua, nhưng sương đêm nơi núi rừng hiu quạnh vào những ngày tàn đông cũng làm cho lòng chàng bồn chồn buốt giá. Chàng đến gõ cửa một ngôi tịnh thất nhỏ nằm chơ vơ bên vách đá, vì nghe có tiếng chuông vọng ra từ bên trong. Vị sư mở cửa, thoáng nhìn qua chàng rồi nhỏ nhẹ nói:

_ Tráng sĩ ắt hẳn muốn tá túc qua đêm nơi Bổn Tự? Vậy xin mời vào bên trong cho ấm.

Chàng trai ngạc nhiên song tự nghĩ : “ Vị Sư chắc từng đón tiếp nhiều khách lỡ đường như ta, nên đã quen mà không hỏi han gì”.

Mạnh Trí thức giấc giữa đêm khuya khi vị Sư trở dậy đi công phu. Chàng trằn trọc mãi không phải vì mệt mỏi sau nhiều ngày dong ruỗi mà bởi bao ý nghĩ chợp chờn cứ như làn sóng nhấp nhô xuống lên không dứt. Vị sư vẫn còn trung niên. Ngôi Tịnh Thất này cũng chỉ được tạo dựng sau này, rõ ràng không thể làm chứng nhân cho mọi sự việc xãy ra trước kia. Chàng lẫm bẫm :- Hừ! Ta đang muốn làm kẻ truy tìm lại một quá khứ tội ác đau thương. Thật chẳng dễ dàng gì, với chừng ấy thời gian trôi qua.

Vị Sư châm trà mời Chàng cùng đối ẩm, không gian toả rộng theo vị trà thơm thoang thoảng. Chủ khách cùng yên lặng thưởng thức. Ngoài sân trời đã sáng. Một ngày bắt đầu nơi núi rừng mới yên tịnh làm sao. Tiếng chim hót líu lo. Tiếng reo vi vu của suối ngàn thăm thẳm. Tiếng nẩy mầm tươi vui của bao chồi xanh khi đất trời đang chuyển mình để bước sang mùa xuân mới. Mùa xuân sắp về mà Mạnh Trí vẩn còn làm kẻ lang thang nơi này. Mục đích thì rõ ràng, mà đầu mối thì lại mịt mù rối rắm đâu đâu.

_ Thí chủ …._ Vị Sư lên tiếng sau một hồi cả hai cùng mật niệm bên chén trà đạo, Người đi đâu qua đây trong những ngày đông giá lạnh này. Bần đạo xem qua thì ắt hẳn không phải là thương buôn?.

_ Vâng, Bạch Thầy… Tôi đang đi tìm một người. Dạ! xin hỏi… Thầy mới đến đây ẩn tu, hay ở trước khi con đường được mở rộng dẫn xuyên qua núi. Tôi có hỏi thăm dân chúng thì được biết con đường do một vị sư tự làm lấy trong nhiều năm… Người đó có phải là Thầy…

_ Câu chuyện về con đường … nói ra thì dài lắm. Thí chủ uống trà thư thả rồi Bần đạo sẽ kể lại. Người khởi xướng và khổ công đục đá xuyên đường nhiều năm trời ròng rã chính là Sư Phụ của Bần Đạo. Người vừa tịch cách đây một năm. Khi Bần Đạo đến… thì con đường đã gần hoàn thành...

_ Thầy vì lòng mến đạo tu hành mà đến đây?

_ Không! Tôi tìm đến vì một nguyên do khác. Để rồi sau đó bằng lòng ở lại làm một ẩn sĩ tu hành, an bần lạc đạo. Câu chuyện bắt đầu từ bốn mươi năm về trước…

Ở nơi Kinh Thành xa xôi có một nhà Võ Sĩ tài danh lỗi lạc vang tiếng một thời. Trong nhà nuôi rất nhiều đệ tử và nô bộc. Ông có người thiếp trẻ, xinh đẹp nhưng tánh tình lẳng lơ quỷ quái. Cô ta ra sức quyến dụ một đồ đệ. Rồi một hôm, võ sĩ bắt gặp tại trận hai người cùng dan díu làm chuyện dâm loạn. Ông nổi giận, bắt người để tử ra giữa nhà, định chặt chân anh ta để trị tội. Nhưng khi thấy Võ Sĩ còn rất giận dữ và lơ là việc canh chừng, anh ta vụt đứng dậy, giựt lấy cây thương đâm chết Thầy mình, rồi cùng với người thiếp bỏ trốn.

Hai kẻ gian phu dâm phụ ấy đã cao chạy xa bay tìm đến một ngọn núi để chung sống với nhau. Một thời gian vì… cô ả vốn quen sống trong nhung gấm bạc tiền, nên không thể chịu nổi cảnh túng thiếu nghèo khổ. Thế là cô ta bức bách anh chồng phải làm một kẻ cướp của giết người. Hồi đó nơi ấy có con đường mòn đi tắt qua biên giới. Khách buôn thường hay qua lại, để rồi không ít người trở thành nạn nhân cho sự cuồng sát của gã, và lòng tham không đáy của mụ đàn bà kia. Gần mười năm trời Họ đã giết không biết bao người. Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đi ngang qua núi. Trên mình người vợ đeo rất nhiều đồ trang sức quý giá. Người đàn bà lại bức ép anh chồng ra tay giết họ để cướp tài sản. Người đồ đệ trong lòng không nở nhưng cũng phải ra tay. Anh ta đuổi theo giết người vợ, còn người chồng thì chạy thoát được. Khi cầm trên tay những nữ trang của của người phụ nữ vừa bị mình giết, trong lòng gã hối hận buồn thương vô hạn. Thế là Anh ta quăng hết mọi thứ vào bụi cỏ. Chạy trốn cả người vợ ác quỷ.

Ông đến ngọn núi khác tu hành rồi trở thành Hoà Thượng. Hằng ngày, Ông tinh tấn tụng kinh niệm Phật và sám hối tội lỗi trước kia. Ngoài ra Ông còn vì dân chúng, sáng chiều cần cù đục đá làm đường thông qua núi. Như thế, trải qua hai mươi năm ròng, Ông đã sáu mươi tuổi mà không lúc nào lơi lõng việc tụng kinh bái sám. Công trình đục đá làm đường cũng đi được chín phần mười. Quan địa phương và dân chúng quanh vùng, rất cảm động về việc làm của Hoà Thượng nên thường cho vài người đến phụ đục đá. Con đường ngày càng được khai thông rộng rãi, dân làng thuận tiện đi lại.

Lại nói về con của người võ sĩ trước kia. Lúc này đã khôn lớn và cũng trở thành một võ sĩ có tiếng. Anh bèn đi tìm kẻ giết cha mình để phục thù. Khi đó Vị Tăng ra nhận tội, mong muốn được chết để sám tội nghiệp xưa. Nhưng dân làng một mực đứng ra bảo vệ Ông. Hoà Thượng bèn xin với tráng sĩ, cho mình làm đường xong rồi hãy giết. Võ sĩ không thể đợi, nên chờ đêm xuống, muốn đến ám sát Ông. Lúc Anh ta tới nơi thì thấy Ông cật lực làm việc thâu đêm không nghỉ, nên cảm động, bèn ở lại phụ Vị Tăng đục đá đắp đường, lòng thầm nghĩ:- Thôi thì hãy đợi làm đường xong, Ta báo thù cũng không muộn.

Võ sĩ cùng với vị Tăng thường nỗ lực làm đường ngày đêm không nghỉ tay. Một năm trôi qua, chỉ còn hai người làm với nhau. Và rồi con đường cuối cùng cũng được thông suốt. Bấy giờ cả hai đều cảm thấy rất vui mừng an lạc. Sau đó vị Tăng tụng kinh hồi hướng cho gia chủ và những người mình đã giết trước kia. Xong rồi Ông mới bảo Võ Sĩ ra tay giết mình. Một năm qua, Võ Sĩ đã thầm thọ sự cảm hoá bởi cung cách sống, tu niệm và việc làm của vị sư, nên hầu như quên hết mối thâm thù xưa. Hơn nữa, cả hai người đang vui vì đã hoàn thành một công trình lợi ích nhân sinh. Dân làng lại rất tôn trọng cùng biết ơn vị Tăng.

Võ Sĩ lúc này mới sực nhớ lại trọng trách của mình. Bất chợt chàng khẻ thở dài thầm nghĩ: “ Một người mang đầy tội lỗi cực ác trước kia, đã biết quy tâm hướng thiện, làm bao điều lợi lạc cho chúng sanh, quên hết cả bản thân mình, ra sức tu niệm, mà lại có dũng khí cải hối nhận tội. Ta vì mối thâm thù đại hận, cũng chỉ muốn hành xử với kẻ tàn ác mà thôi. Nếu giết Ông thì có khác gì xâm hại một bực tu hành chơn chánh. Dân làng sẽ không tha thứ mà lương tâm ta cũng không tha thứ cho mình.”

Thế là cả hai người cùng hoà giải. Họ ôm nhau vui mừng và cùng khóc. Sau đó chàng Võ Sĩ ấy đã ở lại xin xuất gia làm đệ tử của vị Tăng.

_ Võ Sĩ đó chính là thầy đây sao?

Mạnh Trí buột miệng kêu lên. Vị Sư hơi ngước nhìn Chàng dò hỏi, rồi gật đầu nhẹ:_ Phải! chính là Tôi. Nhưng Tráng sĩ chắc là có tâm sự gì. Trông người có vẻ khác thường khi nghe xong câu chuyện.

Chàng trai trẻ không trả lời, lặng lẽ đứng lên đi đến bên khung cửa sổ, nhìn chăm ra khu rừng thông phía ngoài. Những cây thông chịu đựng cả một mùa đông băng tuyết, nay đang nhú dần ra các chồi non mơn mởn. Mùa xuân đến rồi sao. Trời trong xanh và những tia nắng vàng ấm áp đang quét sạch hết màn sương đêm. Vị tu sĩ vẫn ngồi yên. Ông chờ đợi hay không muốn làm khuấy động phút giao lòng của vị khách lạ. Đôi mắt Tráng Sĩ gần như bất động khi nhìn sang ngôi tháp của vị Hoà Thượng vừa viên tịch mà sáng sớm nay chàng vừa ra đó nghiêng mình đảnh lễ.

_ Hình như ngay từ đầu thầy đã nhận ra Tôi? Tráng Sĩ cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn.

Vị Sư vẫn ôn tồn nói :_ Chúng ta chưa từng biết nhau. Nhưng Tôi vẫn đoán được mục đích của Tráng Sĩ khi đến đây. Trước lúc viên tịch Thầy Tôi có căn dặn: “ Rồi sẽ có con cháu của những người Thầy sát hại trước kia tìm đến để báo thù. Chỉ tiếc là Ta không còn để trả nợ cho người. Con hãy nói với Họ là ta xin tạ tội với tất cả. Đời đời sanh ra nguyện tu hành hồi hướng cho bao người nằm xuống dưới lưỡi đao của người, và dầu có chịu trăm ngàn lần đâm chém, Người cũng vui lòng...

Mạnh Trí mím môi nói lớn:_Hừ! Chỉ nói mấy lời như vậy là có thể xoá hết tội ác và lòng thù hận của người ta sao. Mẹ Tôi, chính là người phụ nữ cuối cùng làm Ông ta chùng lòng. Vậy mà ông cũng ra tay giết hại, để mãi mãi Tôi trở thành đứa trẻ mồ côi khi chưa tròn tuổi. Tôi lớn khôn nghe Cha kể lại và quyết tâm đi tìm kẻ thù. Tôi đã bỏ bao công sức để luyện công học võ và tìm kiếm; nhưng khi đến nơi thì Ông ta không còn.

_ Thì ra Cậu là con của người phụ nữ đeo đầy đồ trang sức ngày đó. Cái chết của mẹ Cậu đã làm cho Thầy hối hận ray rứt vì tội ác của mình. Điều ấy đã khiiến cho Người hướng theo một con đường khác. Tôi cũng từng nằm trong hoàn cảnh đó, nên hiểu rõ lòng hận thù đau khổ của một đứa con trước một kẻ đã sát hại cha mẹ mình. Bây giờ người mất rồi. Tội ác đã tạo trước kia, dù tu hành tinh tấn và chứng ngộ nhưng dư báo Người vẫn sẽ trả. Cậu có nhìn thấy tháp của Hoà thượng rồi chứ. Chính dân làng đã xây lên để tưởng niệm ân đức của Người. Cậu có thể trút hết hận thù mình lên đó, chưỡi mắng hay đập phá gì cũng được…

_ Thầy bảo Tôi xúc phạm vào linh tháp của bực tu hành để mắc tội đoạ à!

_ Cậu nghĩ được vậy là tốt. Đó cũng là ý tưởng của Tôi khi đặt chân đến nơi này. Một người từng giết cha, và bây giờ là thầy của mình. Tôi được cảm hoá bằng giá trị của một tâm hồn luôn biết sám hối hướng thiện, xã thân vì nhân thế …… Khi đi trên con đường phía trước đó, Tôi đã nghĩ như vậy. Hoà Thượng đã trồng hoa hai bên đường và gọi là con đường Hoa đạo. Con đường không chỉ mang lại nhiều tiện ích cho nhân sinh, mà nó còn chứa đựng mọi giá trị tâm linh cao cả. Thầy cầu mong ai đi trên đó đều mang cảm giác an lành hạnh phúc.

Khi những nụ tầm xuân vừa chớm nở dọc theo hai bên đường Hoa Đạo, Người ta thấy chàng tráng sĩ mang gươm ngày nào lần bước xuống núi. Lúc này hai tay chàng buông thỏng, vẻ mặt sáng ngời tươi tắn, gần như xoá hết những vết nhăn ưu tư của lúc mới đến. Chàng đi trở lại con đường cũ, nơi đã đưa Chàng tới bờ bình yên sau nhiều ngày tìm kiếm xuôi ngược. Lúc này lòng chàng thật thanh thản vì không còn mang nặng mối thù sâu. Thanh gươm tung hoành của đời tráng sĩ cũng đã gác lại… bên dưới chân ngọn Tháp của vị tăng vốn mang đầy ân oán với cuộc đời

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3306)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2653)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2812)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2028)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1853)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2244)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1699)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3283)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 2197)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567