Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đàn gà ri- Những người bạn nhỏ

24/02/201708:24(Xem: 2965)
Đàn gà ri- Những người bạn nhỏ
xuan dinh dau 2017

Đàn gà ri- Những người bạn nhỏ
Trần Thị Nhật Hưng






Một buổi xế trưa nắng hơi nghiêng về chiều, cái sân nhỏ trước hiên, nhờ bóng nhà đầy râm mát. Đàn gà ri -một mẹ, một bố và tám con- đang líu ríu bươi đất cát nơi chân hàng rào. Công việc thật thừa thãi, nhàm chán, tôi chắc chắn chúng chả tìm thấy gì trong đám cát khô cằn không một ngọn cỏ một bóng cây. Thế mà đã nhiều ngày, cứ giờ này, chúng lại luẩn quẩn quanh đấy, bươi đất cát, nô giỡn ra điều thích thú lắm. Không ai đoán được chúng rất tinh khôn. Vì vào giờ này, sau khi đánh một giấc ngủ trưa, tôi vẫn có thói quen mở nắp lon guigoz vốc một nắm gạo nàng hương mà tôi đã xay nhỏ bằng cối xay tiêu, một ít thóc, rồi thong thả ra sân chưa kịp cất tiếng…cộc...cộc…cộc…để gọi đàn gà ri, chúng đã ùa chạy tới, như một thói quen, đợi tôi cho ăn. Tôi rải gạo, thóc trên khoảng sân nhỏ bằng xi măng bên hông cửa ra vào. Những con gà ri con chỉ mới nở hơn tuần nay, lông trắng ngần, lăng xăng chạy theo bố mẹ, như những trái ping pong. Chúng vươn cánh và dù cố gắng nhiều lần để nhảy lên thềm nhà nhưng nhiều con vẫn rớt lại. Con gà mẹ quay đầu như một từ mẫu, giương mỏ liên tục…cộc…cộc…cộc…để yểm trợ tinh thần những đứa con yếu đuối. Tôi thấy tội nghiệp chúng, vội cúi
xuống nâng chúng lên. Rồi cả mẹ lẫn con rối rít mổ những hạt gạo, thóc.
Xế trưa thật im vắng, nhất là lúc Hữu, chồng tôi đã đi làm, bố chồng tôi đi vắng. Ở nhà chỉ còn tôi. Và “Nội Thành„ cái tên gọi nơi tôi ở, vốn là nơi biệt lập với dân chúng bên ngoài, khu dành cho quân sự, tòa án và gia đình quân nhân nên ngày đêm đều có lính canh. Nơi đây rất vắng vẻ vì thiếu người qua lại, thiếu xe cộ dập dìu, thiếu cái sinh hoạt nhộn nhịp tưng bừng của thành phố. Căn nhà của tôi lại lẻ loi xa hẳn với mọi nhà. Phía trước, cách một con đường đất nhỏ là tòa sơ thẩm cao lớn chễm chệ sau bức tường dài. Phía sau còn những căn phòng chờ người ở. Trước kia, thuở chiến tranh chưa sôi động, căn nhà đã một thời là nhà hộ sinh, bưu điện. Sau hai cơ sở này chuyển ra ngoài phố, căn nhà đành bỏ hoang và gia đình tôi được chính phủ cấp cho một gian, ở ngoài rìa trong số những phòng trống đó.
Cái tĩnh mịch đến rợn người, buồn tẻ, nên tiếng chíp chíp do sự hiện diện của đàn gà ri đối với tôi lúc này bỗng trở thành niềm vui đáng kể.
Tôi ngồi bệt xuống thềm, chăm chú ngắm những chiếc mỏ đen nhỏ xíu bằng đầu viết bic nhịp nhàng gõ lốc cốc trên những hạt gạo. Tôi không biết phải bao lâu đàn gà con có thể no rồi lớn mau lên được. Nắm gạo thật khiêm nhường chẳng mấy chốc đã vơi quá nửa. Tôi vào nhà mang cả lon guigoz ra rồi tiện tay bốc cho hai con gà lớn một nắm thóc. Đàn gà con vẫn nhịp nhàng gõ lốc cốc. Tôi lấy chiếc lồng lưới bằng kẽm chụp chúng lại, rồi từng con một tôi bắt ra ngoài nâng niu như em bé, vạch mỏ nhét gạo cho chúng ăn. Tôi thư thả bón hết con này sang con khác. Lúc cái diều nơi cổ chúng lớn bằng viên bi, cứng ngắt, tôi mới đặt xuống. Chúng đứng im nặng nề, choáng váng như người bị chóa mắt khi bước vào căn phòng tối. Phải một lúc thật lâu như để định thần, chúng mới chập choạng bước đi. Dáng uể oải mệt nhọc.
Buổi chiều nhè nhẹ buông, nắng cũng bớt gay gắt. Nhưng đường xá vẫn im lìm. Dường như không có lấy một bóng người hay chiếc xe qua lại. Những ngày đầu mới đến đây, tôi buồn hiu như sống trên một hoang đảo, rồi dần dần cũng quen. Tôi tự giết thì giờ, hầu hết dành cho đàn gà ri nhỏ. Ngày con gà mẹ đẻ cái trứng đầu tiên, rồi liên tiếp những trứng khác, tôi nâng niu cất giữ, tìm rơm cho gà ấp, xay gạo nhỏ cho gà ăn, xem xét lại chuồng gà để tránh chuột đêm đêm quấy phá. Và nhất là con mèo tam thể, tôi cố công dạy mèo đừng có máu thực dân, phải biết sống hòa bình thương yêu và tôn trọng sự sống của đàn gà khác chủng. Những công việc tẩn mẩn cũng cho tôi sự thanh thản của tâm hồn, an nhiên tự tại, chấp nhận những gì mình đang có để tìm thấy niềm vui trong cái thế giới bé nhỏ an lành nhưng rất linh động đó.
Tôi ngắm lại đàn gà con. Chúng không đi nổi nữa, chỉ đứng im gật gù dáng nặng nề mệt nhọc. Có lẽ chúng bội thực. Cái diều nơi cổ chúng đã quá lớn nổi u to như người sưng bướu cổ. Bây giờ thì vài con đang ngồi xuống. Thân tròn vo, che khuất hai chân đen với năm ngón nhỏ xíu. Gió chiều hiu hiu thổi, lay động những sợi lông tơ trên thân thể mấy con gà. Tôi ngắm chúng thật lâu mới sực nhớ chưa cho gà uống nước. Quanh đây chẳng có ao hồ. Một vũng nước mưa cũng không. Tôi chạy vào nhà trong tìm lon mang ra một ít nước rồi một lần nữa, cũng từng con một, hết con này đến con khác, tôi vạch mỏ nhỏ từng giọt vào miệng chúng.
Thật ra nuôi gà, bình thường tôi không phải cầu kỳ như thế. Nhưng công việc tẩn mẩn vô thưởng vô phạt để qua thì giờ như hôm nay cho tôi niềm thích thú, quên những ngày tháng lặng lẽ, vô vị. Không như đời sống của tôi khoảng hai năm về trước, cùng thời gian ngày tháng này, tôi cũng phải chăn gà nhưng chăn với cõi lòng ưu tư nặng trĩu.
Hai năm đó tôi còn cắp sách đến trường giữa thời điểm quan trọng nhất của hai cuộc thi tú tài. Thế mà không hiểu sao, tại định mệnh hay tại tôi là thứ “điếc không sợ súng„ tôi lại lơ ngơ nhận lời về làm dâu nhà cụ Định, một người thuộc thế hệ xưa, thật nghiêm khắc và vô cùng bảo thủ. Rõ ràng tôi thấy cụ chẳng giống ai. Sống thời đại văn minh, kỹ nghệ, mọi người đua theo đà tiến của thế giới, cụ lại kéo tôi đi ngược dòng thời gian.
Về nhà cụ được hơn tháng, một hôm sau bữa cơm gia đình, cụ gọi tôi lại bảo:
- Nhà bố di cư vào Nam chỉ có hai bố con. Bấy lâu nay cơm hàng cháo chợ, đại khái qua ngày, sinh hoạt chả ra sao. Nay có con về, mọi việc trong nhà giao cho con quán xuyến. Bố nghĩ đàn bà học đến tú tài là cao lắm rồi. Vài tháng nữa thi xong, đậu hay rớt thì cũng nên ở nhà. Học đến bà trời rồi cũng rúc bếp mà thôi.
Tôi hơi sa sầm nét mặt vội lên tiếng đáp:
- Con ao ước được đi học. Trước lễ cưới bố đã hứa như vậy rồi. Việc học thì cứ học, việc lấy chồng thì cứ lấy chồng. Hai điều đâu có liên quan gì nhau. Học xong con sẽ cất cái bằng rồi ở nhà chăm lo gia đình. Còn bây giờ mặc dù con vẫn đến trường mà việc nhà con có bỏ bê đâu.
Nghe tôi nói vậy, cụ gật gù đáp:
- Đấy là bố nói thế, còn thì tùy con. Rồi bàn về vấn đề tài chánh gia đình, cụ tiếp:
- Còn nhà con tuy đang là quân nhân, nhưng xưa nay gia đình ta chủ trương “an bần lạc đạo„ nên sống thanh bạch và trong sạch. Bố quan niệm tiền tài danh lợi như bóng mây. Trước 54, gia sản gia đình cha mẹ bằng mồ hôi nước mắt ở ngoài Bắc còn không giữ được huống hồ là của trời ơi đất hỡi. Bố cũng chán nản nên không thiết làm giàu. Ba bố con chúng ta chỉ trông vào đồng lương ba cọc ba đồng của nhà con, vậy con phải liệu ăn tiêu, không se sua trưng diện rồi đẩy nhà con đến chỗ tham nhũng.

Hồi đó tôi vừa 18 tuổi, lại sống hồn nhiên vô tư trong sự bao bọc chở che của ba má tôi. Ngoài cái ghế nhà trường, với thầy cô, bạn bè, sách vở, tôi không hề quan tâm lo lắng về đời sống, nhất là chuyện tiền bạc áo cơm. Tôi lạc quan nhìn đời như kẻ sống trong tháp ngà, ngơ ngác như những con nai, ngây thơ như chim câu mới ra ràng. Nên nghe cụ bảo vậy, tôi thản nhiên thưa:
- Tiền bạc bố đừng lo. Nếu nhà mình túng thiếu, con về xin ba má con được.
Cụ Định lắc đầu:
- Con gái đi lấy chồng là thuộc về nhà chồng, sống chết với nhà chồng. Đâu còn liên hệ gì với gia đình mình nữa, nhất là vấn đề tiền bạc.
Tôi nghĩ cụ quá câu nệ. Tại sao con cái thiếu thốn lại không được phép xin tiền từ cha mẹ nếu cha mẹ giàu có. Con gái hay con trai cũng là núm ruột của cha mẹ. Ruột đứt, lòng cha mẹ có đau không? Nhưng tôi hiểu chẳng qua tại cụ Định giữ gìn ý tứ để tránh những điều đáng tiếc xảy ra giữa ba má tôi và gia đình cụ, nên tôi không nói thêm gì.
Sau bữa ăn tối gia đình, tôi vẫn có thói quen quây quần bên bàn khách trò chuyện. Hồi đó gia đình tôi chưa đổi vào ở trong nội thành, thuê một căn nhà nhỏ hai gian, ở góc ngã tư ngoài phố. Phía trước, có khoảng sân rộng với hàng rào kẻm gai. Bên kia đường là ao rau muống lớn lẫn lộn với đầy bèo nằm khuất dưới một bụi tre xanh.
Một hôm cũng sau bữa ăn tối, bố chồng tôi thong thả nói, vẫn với dáng điệu khoan thai vừa nói vừa châm một điếu thuốc lào:
- Bố nghĩ một gia đình nề nếp, căn cơ, có sự hiện diện của đàn bà thì trong nhà cần có gia súc: gà, vịt, chó, mèo…Ngoài việc thêm cái ăn cho gia đình, còn phòng lúc hữu sự bạn bè khách khứa. Phải biết lo xa cất để mới gọi là đàn bà đảm đang.
Tưởng cụ nói chơi thôi, ai ngờ một tuần sau, khi từ trường tan học về, tôi thấy một chuồng gà sáu ngăn, gồm ba tầng trên ba tầng dưới, cao vừa tầm mắt một người đứng, đóng bằng gỗ có mái tôn. Vừa thấy tôi, cụ khoe:
- Sáng nay, bác Hà mới cho mình một chuồng gà. Tội nghiệp, bác còn cho cả mấy cặp gà, mấy cặp vịt. Bố cứ từ chối mãi mà bác cứ thảy đấy rồi bỏ đi.
Tôi hiểu ra nguyên do. Bác Hà thợ mộc vừa là chỗ thân tình vừa là bịnh nhân của bố chồng tôi. Bác có bịnh nhức đầu kinh niên, nhờ bố tôi kê đơn bốc thuốc, bố tôi không nhận thù lao nên cái chuồng gà, vài con gà, vài con vịt coi như ơn đền bố tôi ra công chữa trị.
Tôi nhìn cái chuồng gà mà lắc đầu ngao ngán!
Thời gian đó tôi sắp thi tú tài. Dù tú tài thập niên 1970 tuy đã giảm giá trị so với nhiều năm về trước, nhưng đâu quá dễ dàng không học mà đậu được. Bài vở ngập đầu, ngoài hai bữa cơm chính, quà sáng, đun nước sôi để bố chồng tôi pha trà, tôi còn mất nhiều thời giờ vào việc đi chợ, giặt giũ, rửa chén, dọn dẹp... Những việc linh tinh cũng khiến tôi bở hơi, chạy vắt giò lên cổ. Nếu nhà có người giúp việc, hay nhiều tiền cho tôi thư thả chi phí thì tôi đỡ khổ hơn. Đằng này, tôi cực tấm thân, còn mệt trí tính toán chi tiêu thế nào phải nằm trong tiêu chuẩn “ngon, rẻ, bổ” để hợp với tài chánh gia đình. Lắm lúc tôi hối hận tại sao lên xe hoa sớm, tự trách mình bồng bột hành động chẳng biết nghĩ suy. Nhưng tôi hiểu bố chồng tôi. Không phải cụ cay nghiệt hành hạ con dâu như những bà mẹ chồng khác. Chỉ bởi cụ quan niệm cổ xưa việc nhà là việc của đàn bà. Chả thế mà lúc tôi mới bước chân về nhà cụ, cụ đã gán cho tôi chức “nội tướng gia đình” (làm “tướng” nhưng tôi chả có quyền hành gì cả. Việc nhà tôi làm chủ, bố chồng tôi quản lý) rồi cố luyện cho tôi thành một phụ nữ Việt nam quán xuyến đảm đang. Còn việc học của tôi thì cụ lơ là chẳng màng quan tâm tới. Vì như trước tôi đã nói, bằng cấp của một người đàn bà, cụ cho là cũng vứt xó bếp bỏ đi.
Từ hôm có chuồng gà, tôi lại thêm công việc. Ngày hai buổi sáng, trưa, trước khi đến trường, tôi phải nhớ mở cửa chuồng cho gà, vịt ăn. Tôi bốc một nắm thóc ném ngoài sân cho mấy con gà, xúc một nắm thóc khác cho vào đĩa nhựa đầy nước cho mấy con vịt. Gà thì còn dễ nuôi. Buổi tối mắt gà bị quáng không thấy đường nên mới chạng vạng tối là gà tự động về chuồng, tôi chỉ việc khoá cửa chuồng là xong. Còn vịt thì không đơn giản. Chúng ì ạch chậm chạp có vẻ làm biếng mà lại ham chơi. Chúng đi rong khắp xóm, đôi khi say sưa rỉa mồi, hay thích thú bơi lội nơi ao đầm sình lầy nào đó, mà thường là ở cái ao rau muống bên kia đường, lắm khi tôi phải đứng cả buổi trên bờ ao, lượm gạch hay sỏi ném xuống ao nhắc nhở; hay có khi tôi cầm roi đi khắp xóm để tìm rồi lùa chúng về. Vô tình tôi nghiễm nhiên trở thành kẻ chăn gà, chăn vịt thật chuyên nghiệp. Đó là tôi chưa kể, vài tuần sau gia đình tôi lại được tăng cường một chuồng chim câu với bốn ổ đặt sừng sững bên cạnh chuồng gà và một con mèo tam thể nhỏ nhắn xinh xinh. Thế là tôi lại “bị” tăng cường thêm nhiều công viêc!
Nhiều người khách bạn của Hữu và bố chồng tôi thấy “trang trại” sinh động rộn ràng của gia đình, còn đề nghị nuôi thêm chó, heo cho vui nhà vui cửa. Cũng may bố chồng tôi không bằng lòng vì chó ăn nhiều tốn gạo lại không hữu ích gì cho gia đình. Chó, người ta thường nuôi để giữ của, mà nhà tôi đâu có nhiều của để canh. Còn heo, cụ nói dơ, phóng uế hôi thối không chịu được.
Vài tháng sau tôi thi. Niềm an ủi duy nhất đền bù cho những ngày khó nhọc, tôi có tên trong danh sách những người trúng tuyển. Vài quả trứng gà, vịt, chim, công lao tôi chăm sóc “trang trại” cũng cho tôi niềm vui nho nhỏ, nhưng không bù lại với sức cố gắng của tôi bấy lâu. Tôi sút ký tiều tụy thấy rõ. Từ 50 ký tôi chỉ còn 43 ký. Tôi ốm nhom, mảnh mai như cành liễu lơ phơ trước gió.
Bố chồng tôi vốn là thầy thuốc đông y. Không biết do nghiên cứu hay tình cờ đọc sách, cụ khám phá ra một loại gà ri xương đen, lưỡi đen, da đen, lông trắng, tai xanh còn có tên là gà ngũ trảo (vì có năm ngón chân), gà ô kê, gà ác (mặc dù sau này khi nuôi tôi thấy chúng thật trung thành dễ thương). Loại gà này có dược tính bình, ngọt. Nhờ xương đen thuộc hành thủy, hấp thụ tinh khí của mộc và thủy do đó bổ cho người hư lao (tức là người thiếu khí huyết), can thận, giúp dạ con khỏe chống hư thai, giảm nhiệt trong người, tiểu đường, hạ lỵ, kém ăn, đới hạ, băng trung. Máu mào gà ri nhỏ vào yết hầu trị chứng trúng phong...ôi thôi còn vô số bổ. Đàn ông nên ăn gà mái, đàn bà gà trống. Vì có trăm thứ bổ như vậy, nhất là cho tôi, nên vài tháng sau tôi lại thấy xuất hiện hai cặp gà ri tung tăng trong sân nhà. Chúng không lớn quá một trái banh lông. Lông gà trắng, mỏ đen, mào đen, chân đen. Thoạt nhìn qua, tôi mường tượng chúng như người Phi Châu đang mặc đồ trắng cũng ngồ ngộ dễ thương. Nhưng thời gian đó, tôi chuẩn bị vào niên học mới, bài vở sẽ ngập đầu nên tôi thương chưa nổi. Tôi lại ngao ngán thở dài!
Trước ngày nhập học vào lớp 12, cụ Định gọi tôi đến. Lần này nét mặt cụ nghiêm trọng, giọng nói có hơi ra vẻ phiền trách. Tôi rụt rè lo âu, khép nép, ngồi xuống một mé ghế dài.
- Đến nước này mà con còn đi học? Học đến thế là đủ lắm rồi. Đàn bà con gái phải lo quán xuyến đảm đương gia đình. Con còn có bổn phận làm vợ, làm mẹ nữa cơ đấy.
Tôi giương mắt tròn xoe nhìn cụ, chả nói chả rằng, cảm thấy như có hàng trăm hằng ngàn mũi kim đâm nhói vào tim. Người tôi run lên, nước mắt ứa ra, môi lắp bắp muốn lên tiếng nhưng không nói thành lời. Tôi đứng dậy chạy nhanh vào phòng nằm vật xuống giường, òa khóc. Hữu chạy theo, ôm tôi vào lòng dỗ dành:
- Không, đi học là một việc tốt. Ngày mai em cứ cắp sách đến trường, anh không cản trở em đâu.
Tôi ấm ức nói bừa:
- Bỏ chồng thì em bỏ, chứ bỏ học thì em không!
Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, lau bàn, lau ghế, đun nước quét nhà, kiểm điểm mọi thứ từ gà, vịt, chim, mèo không sót một điều gì để cụ Định phiền trách, rồi mới lo thay quần áo, tay cầm cặp, nón, lấp ló đứng mãi trong phòng chờ Hữu giải vây:
- Em, gần 8 giờ rồi, sao không đi học đi!
Tôi bước vội theo cửa hông vòng ra cửa trước, chào nhanh cụ Định và Hữu đang ngồi trong phòng khách rồi tất tả đến trường.
Buổi trưa đi học về, Hữu vẫn chưa có nhà, tôi lấm lét như một kẻ tội phạm nhìn nét mặt nghiêm khắc, không vui của cụ Định, lòng tôi bồn chồn bất an. Thay vội quần áo xong, tôi xuống bếp nấu cơm. Niềm hối hận chợt dâng kín tâm hồn. Tôi luyến tiếc chuỗi ngày bên cha mẹ, nơi đó tôi thảnh thơi học hành, sống trọn vẹn tuổi hồn nhiên vô tư lự của đời học trò. Hằng ngày tôi chỉ ăn rồi học, rồi cắp sách đến trường. Việc nhà đã có mẹ, chị dâu, chị gái và người giúp việc lo. Tôi không phải quan tâm bận rộn về bất cứ chuyện gì trong gia đình dù những điều nhỏ nhặt nhất. Thậm chí giờ ăn cơm cũng có người đến nhắc nhở tôi. Thức uống đôi khi tôi còn được mẹ chăm sóc, vắt cho từng trái cam tươi tẩm bổ trong lúc học hành.
Ba má tôi còn ra lệnh cho cả nhà không ai được sai vặt tôi, quấy rầy tôi, làm gián đoạn dù chỉ vài phút khi tôi ngồi nơi bàn học. Thế mà giờ này tôi phải đứng đây, một mình loay hoay nơi xó bếp, tẩn mẩn lặt từng cọng rau, lau từng cái chén, quét từng cọng rác dưới sàn để chỉ cầu mong bố chồng tôi vui vẻ cho tôi cắp sách đến trường.
Cụ Định và Hữu cũng biết, dù tôi có nhận lời làm vợ Hữu nhưng tôi đâu đã muốn làm dâu, làm vợ, làm mẹ trong lúc này. Tôi chỉ muốn tốt nghiệp đại học rồi mới tính chuyện hôn nhân. Nhưng, như một người từng trải đầy kinh nghiệm sống, Hữu và cụ Định áp dụng đúng câu tục ngữ “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên Hữu và cụ Định “ép” tôi tiến tới. Đám hỏi đám cưới, hai người như định sẵn từ bao giờ. Một ngày tan học về, tôi thấy trầu cau khách khứa đầy nhà, rồi mọi người tuyên bố, đó là lễ đính hôn của tôi và tháng sau tôi sẽ về nhà chồng. Tôi chưng hửng như bom nổ bên tai và phản đối quyết liệt. Dù cụ Định có nhờ đến thầy dạy học, bà con thân thích để khuyên bảo tôi, tôi vẫn một mực chối từ. Tôi càng trì chí bao nhiêu, cụ Định và Hữu quyết chí bấy nhiêu. Trước sự nhiệt tình đó, ba má tôi vị nể nên đốc thúc tôi nhận lời. Cuối cùng rồi tôi cũng xiêu lòng nhưng với một điều kiện: Đám cưới rồi tôi vẫn đến trường đi học! Mọi người cứ tưởng đó là lời bốc đồng của một đứa trẻ con. Không đâu, sau đám cưới, tôi đã thực hiện đúng lời tôi giao ước, ngay cả việc ân ái cùng chồng, vì ngại có con phải dở dang việc học, tôi đã không để cho Hữu “chạm” đến người tôi ngay cả đêm tân hôn!
Sau ba ngày ở nhà chồng, những tối về sau, Hữu luôn trực ở cơ quan ngủ đêm ở đó. Còn tôi và cụ Định tản cư đến nhà ba má tôi ngay phố, nơi an toàn để tránh sự đụng độ chiến cuộc về đêm, còn riêng tôi tránh sự “tấn công” bất ngờ của Hữu!
Những tháng ngày sau đó, muốn trong nhà yên ấm, tôi cố quán xuyến đảm đương gia đình để cụ Định hài lòng, để cụ không còn lý do phiền trách việc học của tôi. Từ việc hứng từng thùng nước trong buồng tắm ra đổ đầy thùng phuy ở trước sân để bố chồng tôi rửa mặt (tôi không rõ lý do tại sao cụ cầu kỳ như vậy) đến từng ký xương sống heo, cứng ngắt -không phải xương sườn non- xương sống lưng có tủy cụ cho bổ hơn, hay nói rõ ra vì rẻ hợp hầu bao của gia đình, tôi bỏ nửa buổi, lấy sức...18 bẻ gãy sừng trâu, ra băm thật tinh, vò viên bằng ngón chân cái rồi rim cho hợp khẩu vị của cụ. Bài vở lớp 12 nhiều và khó hơn gấp hai lần năm ngoái, tôi lại ít thời gian, nên phải bỏ hết các lớp luyện thi toán, lý hoá theo chúng bạn. Cụ Định có biết cho tôi như thế không?!
Đàn gà ri thời gian này lại dở chứng oặt ẹo. Sáng ra con nào con nấy bỏ ăn đứng ủ rủ buồn so. Dù tôi đã nhét vào miệng chúng từng tép tỏi, từng trái ớt nhưng xem ra sức khoẻ chúng chả khả quan. Bố tôi ra lịnh làm thịt. Thịt gà ri vốn dĩ đen như chà và, ngoài món kho mặn, hầm thuốc Bắc với long nhãn, bách hợp, qui, thục, hoài sơn, hạt sen, táo tàu, ngọc trúc bổ can thận và tì vị, không còn nấu được món nào khác. Thanh toán xong đàn gà ri, tôi thư thả đôi chút.
Nhưng chỉ độ vài tuần sau, không rõ bằng cách nào, tôi lại thấy xuất hiện đàn gà ri mới. Từ đó ngày ngày tôi lại tiếp tục chăn gà, chăn vịt, chăn chim...!
Rồi cuối năm đó tôi thi, tôi lại có tên trong danh sách những người trúng tuyển. Tôi hân hoan vui sướng biết chừng nào! Tôi hớn hở nghĩ chuyện “du học” Sài Gòn. Tôi bàn với Hữu về ngày tôi sẽ lên đường, về ngành nghề tôi chọn học và nhất là cái cư xá dành cho nữ sinh viên...Tôi lâng lâng dệt mộng về một tương lai sáng rỡ huy hoàng, về con đường thẳng tắp trước mặt, không chông gai sóng gió. Rồi tôi an tâm ôn bài để chuẩn bị dự tuyển vào các trường đại học.
Nhưng rồi một hôm, tình cờ tôi nghe được câu chuyện giữa Hữu và bố tôi, vẫn điệp khúc ngày nào:
- ​ Đến nước này mà con còn cho vợ con đi học. Đàn bà con gái đỗ tới tú tài hai là cao lắm rồi. Cứ như ngày xưa, người ta phải gọi là...bà tú cơ đấy. Còn học thêm làm gì nữa chứ!
Tôi tuyệt vọng chán chường. Nước mắt không còn đổ xuống cho nỗi thất vọng của tôi. Tôi buồn hiu không nói nửa lời.

Hữu thì cứ tìm cách dỗ dành an ủi:
- Không phải anh không muốn em đi học. Nhưng hoàn cảnh gia đình như vậy. Anh không muốn xa em. Thôi bây giờ em nấn ná đợi anh chuyển về Sài Gòn rồi em đi học lại vậy.
Và tôi đã nấn ná đến hơn nửa năm trời. Ngày ngày thúc dục Hữu, nhưng xem ra chàng chẳng động tĩnh gì cả. Đùng một cái, sau vụ Hữu bị ám sát hụt bằng hai quả lựu đạn do khủng bố ném vào phòng khách, gia đình tôi tạm dọn vô Nội Thành và quyết định thuyên chuyển vô Sài Gòn sinh sống.
Biết được điều này, tôi mừng rơn, nhất là quyết định đó bắt nguồn từ bố tôi. Vài tháng sau, cụ bay vô Sài Gòn, ở tạm nhà bạn bè lo việc nơi ăn chốn ở trong đó. Phải đến gần ba năm sau, gia đình tôi mới chính thức đổi vô Sài Gòn tôi mới được đi học lại.
Trở lại việc đàn gà ri. Hôm dọn vô Nội Thành, vì điều kiện sinh hoạt không thuận lợi, xung quanh nhà đất khô cằn sỏi đá, không ao hồ, không bóng cây, gia đình tôi chỉ giữ lại cặp gà ri.
Để giết thì giờ thừa thãi từ khi bố tôi vào Sài Gòn, Hữu đi làm, nơi tôi ở không còn lớp cho tôi đến học, tôi để đàn gà đẻ trứng nở con. Tôi bận rộn vui vầy với chúng, quên đi nỗi nhớ bạn bè, thầy, cô và khung cảnh mái trường yêu dấu. Nhiều khi tình cờ bắt gặp tôi nâng niu bế ẵm, bón ăn bón uống từng con gà ri một, Hữu cũng phát...ghen và thường trêu tôi:
- Đẻ em bé ra mà chơi. Em bé biết cười, biết khóc, vui hơn chơi với mấy con gà!
Tôi nguýt chàng, đùa vui:
- Em chưa thi đỗ thì chưa...động phòng!
Phải nói là thời gian đó tôi sống gần gũi, thân thiện và chăm sóc đàn gà ri một cách đặc biệt hơn chăm sóc Hữu. Hằng ngày, dù muốn hay không, tôi cũng bế từng con nhét vào miệng chúng đầy một diều thóc rồi nắn diều đến no tròn mới thôi. Khi trở trời, chúng hơi oặt ẹo, tôi lo lắng nhét tỏi ớt, và mua cả trụ sinh tétra gà để chữa trị cho chúng.
Thế rồi đàn gà ri dễ thương của tôi, chúng lớn mau như thổi. Tôi vui khi thấy chúng khỏe mạnh tung tăng. Tôi buồn khi thấy chúng bỏ ăn bỏ uống. Rồi đến một lúc tôi chợt nhận ra, không biết xuất phát từ bao giờ, một tình cảm thân thương êm ái nhẹ nhàng len lén vào tâm hồn tôi dành cho đàn gà ri của tôi và ngược lại. Lần nào cũng vậy, mỗi khi tôi đi chợ hay đi chơi về, cả những lúc nghe tiếng xe Hữu, chúng đều từ xa đua nhau tung cánh đón mừng, quấn quít bên chân chúng tôi. Rồi cũng từ đó, không bao giờ dù chỉ thoáng trong ý nghĩ, sẽ có lúc tôi làm thịt chúng.
Bố chồng tôi ở Sài Gòn thỉnh thoảng viết thư về nhắc nhở, gà ri hầm với thục địa, long nhãn, hạt sen... rất bổ cho can thận, dạ con...Nhưng tôi và Hữu không nghĩ đến sự ăn thịt đàn gà ri nữa.
Chỉ một thời gian sau, đàn gà ri của tôi đã béo tròn tươi tốt. Chúng mơn mởn tung tăng hồn nhiên như gái tơ 17. Vẫn như thường lệ, buổi sáng tôi mở cửa chuồng thả chúng rong chơi để chạng vạng tối chúng tự động trở về ngoan ngoãn như mọi ngày. Nhưng chiều 30 ấy, khi từ phố về nhà, tôi và Hữu ngạc nhiên không thấy đàn gà ra đón nữa. Tôi linh tính có chuyện chẳng lành đến với đàn gà ri. Cả buổi chiều rồi tối, tôi tìm kiếm khắp nơi, sốt ruột ngóng chờ, nhưng bóng dáng đàn gà ri của tôi vẫn biệt vô âm tín.
Sáng mồng một Tết, một lần nữa, tôi đi quanh khuôn viên cư xá, mắt tôi bỗng hoa lên, khi thấy đám lông màu trắng ai đó đã vùi lấp nơi góc một vách tường ở cuối căn nhà. Tôi ngồi xuống nhặt lên lòng bồi hồi thương cảm. Dù ngày Tết kiêng khóc, mà nước mắt tôi cứ ứa ra. Tôi biết từ nay, không bao giờ tôi gặp lại...những người bạn nhỏ mà bấy lâu đã cho tôi niềm vui nhẹ nhàng trong sáng!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2010(Xem: 5555)
Sơ lược về Thiền Sư Nguyễn Minh Không, Ông tên là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14/8 năm Bính Thìn (1076) tại Điềm Xá, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Thiếu thời ngài chuyên làm nghề chài lưới của ông cha. Năm 29 tuổi ngài xuất gia đầu Phật. Ngài đã cùng Thiền sư Giác Hải và Thiền sư Từ Đạo Hạnh làm bạn thân sang Thiên Trúc học đạo với thầy Samôn được phép: Lục Trí Thần.
02/09/2010(Xem: 2512)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 2424)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 2320)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 4372)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 52120)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 3508)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 51539)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
19/08/2010(Xem: 7012)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567