Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giấc mộng vàng son

10/04/201311:55(Xem: 3376)
Giấc mộng vàng son

Giấc mộng vàng son

Lam Khê

Kinh thành Kosambi đang trải qua những ngày chấn động kinh hoàng. Hoàng hậu của nhà vua vừa bị ám hại, còn bà thứ phi xinh đẹp sắp lên giàn hoả. Dân chúng sống trong nỗi khoắc khoải lo âu. Họ sợ cả tiếng trống sang canh giữa đêm khuya im vắng, tưởng chừng như đó là hồi chuông báo tử đang giáng xuống đất nước lâu nay vốn rất yên bình hoà nhã.

Một bóng người lầm lũi bước đi trong đêm. Kinh thành hoa lệ cứ lùi dần phía sau. Người ấy cố đi nhanh như thể trốn chạy, nhưng thỉnh thoảng ngoảnh đầu nhìn lại ra vẻ hối tiếc. Làn sương lạnh thấm đẫm đôi vai gầy, hai gót chân trần nhói đau lên từng chập, người thiếu phụ khẻ rên rỉ, rồi quỳ gục xuống bên đường.

Có bàn tay ai đó lay nhẹ. Một giọng nói mang theo hơi gió thoảng về lạnh buốt :

_ Tiểu Liên! Mau đứng dậy rời khỏi đây ngay. Trời sắp sáng rồi.

Nàng giật thót mình ngẩng lên. Bóng người chập chờn mờ ảo trong ánh sao đêm, nhưng giọng nói nghe thật quen thuộc. Cái tên Tiểu Liên chỉ người trong hoàng cung mới biết. Sợ hãi nàng cất tiếng run run :

_ Hoàng Hậu, người còn sống à. Hay hồn ma bóng quế của người dõi theo Tôi đến đây để báo oán?

_ Đừng sợ Tiểu Liên. Chẳng phải ta đã xin Hoàng Thượng tha chết cho em đó sao. Ta là người hiểu đạo, biết rõ nhân quả cùng nghiệp lực trả vay, nên đã đón nhận cái chết một cách an lành, tuyệt không có lòng nuối tiếc, oán hận. Vì nghĩ còn chút duyên nợ nên không nở nhìn em sa vào con đường lầm lạc khổ đau. Em nên đi theo hướng này mới mong gặp được Phật và cầu xin sám hối. Oan trái bao đời từ nay rủ bỏ. Giấc mộng vàng son có đó rồi lại không, sao bằng hướng tới một con đường hoàn thiện an vui vĩnh cữu.

Không gian lặng lẽ chừng như nghe rõ từng chiếc lá cây rụng từ cánh rừng xa xa. Chỉ mới hôm qua thôi, ngọn lửa bùng phát lên nơi phía hậu cung. Ngọn lửa nung nấu vì lòng ganh ghét và ý muốn chiếm hữu ngôi vị chánh cung cao tột, Tiểu Liên đã không ngần ngại mưu tính việc sát hại Hoàng Hậu. Người luôn được nhà vua và quần thần kính phục vì tính cách nhân từ đoan chánh. Ngọn lửa được dập tắt nhưng Hoàng hậu chỉ còn chút hơi thở thoi thóp. Kẻ chủ mưu bị bắt liền sau đó. Nhà Vua nổi giận truyền đem lên giàn hoả, Hoàng hậu trong lúc tàn hơi vẫn cố lấy hết sức can ngăn :

_ Hoàng Thượng…xin hãy tha cho Thứ Phi. Xin đừng gây thêm cảnh tang thương nơi chốn hậu cung nữa. Đây là nghiệp chướng nhiều đời mà thần thiếp phải trả. Thiếp không oán hận gì, xin Bệ Hạ gia ơn lần cuối…

Trước phút lâm chung, gương mặt Hoàng Hậu không hề lộ vẻ đau đớn mà phảng phất ánh lên một niềm tin, một sự mãn nguyện như sắp đi đến một nơi nào đó thật an nhiên hạnh phúc. Bà chắp tay mỉm cười ra đi thanh thản. Mọi người nghe có tiếng niệm Phật, tiếng nhạc du dương lắng dịu từ thinh không. Theo nguyện vọng của Người, nàng được nhà vua phóng thích và buộc rời khỏi hoàng cung ngay đêm đó. Kinh thành tổ chức lễ tang Hoàng Hậu trong nỗi tiếc thương và trân trọng thần phục. Đêm đó nàng chạy khỏi cung cấm mà như chạy trốn cả chính mình.

Những tia nắng đầu tiên trong ngày chiếu xuống con đường đầy bụi mù cát gió. Tiếng chim hót, tiếng người nói chuyện râm ran qua lại làm cho Tiểu Liên chợt bừng tỉnh thức. Nàng chua xót khi thấy mình đang ngồi trà trộn cùng đám dân hạ tiện. Những con người lam lũ nghèo khổ mà sao ánh mắt họ vẫn ngời sáng thế kia. Họ an phận, điều đó chắc hẳn rồi. Mọi người quỳ xuống bên đường và hình như đang chờ đợi điều gì đó. Trên tay Họ cầm vài gói thức ăn …một gói xôi, một chiếc bánh, một nấm cơm vắt, dăm trái cam quýt. Những gương mặt thành kính trang nghiêm, thoáng trên môi ẩn kín một nụ cười bình an tin tưởng. Tiểu Liên ngồi bệt xuống đất. Nàng chẳng có điều gì để chờ đợi ở đây cả. Đói lả, nhưng nàng không muốn làm một kẻ ăn mày. Ngày còn dài mà đôi chân thì đã mỏi lắm rồi. Con chim ở chốn lồng son bất chợt được thả ra, chưa thể định vị được ngay hướng bay giữa cảnh trời đất bao la thăm thẳm mịt mù.

Mọi người bỗng hướng cặp mắt nhìn về cuối con đường, nơi có khu vườn cây xanh lẩn khuất trong đám sương mù chưa tan hết. Một đoàn người đang khoan thai bước tới. Tiểu Liên chợt nhận ra đó là đoàn sa môn của đức Cù Đàm vào làng khất thực. Hình ảnh này nàng từng thấy khi còn trong cung. Mấy mùa hạ liền Phật về trú mưa ở kinh thành này. Nhà vua chưa bao giờ thỉnh Phật vào cung cúng dường, bởi lẽ vua là người còn ham trần thế, nên không thích nghe những bài giảng đạo mang tính triết lý và thoát tục của Phật. Nhưng Hoàng hậu hiền thục thì rất mến đạo. Bà thường tự tay làm thức ăn rồi sai người mang đến Tinh Xá dâng cúng cho Phật và chúng Tăng. Thứ phi thường thấy Bà đi dạo trong vườn mỗi buổi sáng, và quỳ xuống khi Phật cùng tăng chúng đi khất thực ngang qua với dáng vẻ hết sức thành tâm ngưỡng mộ.

Muốn lấy lòng sủng ái của vua, Thứ Phi bèn tâu với Hoàng Thượng là chánh phi mỗi ngày cứ đứng ngắm Phật đi khất thực một cách rất say sưa ngây dại. Vua cho xây kín hết mọi cánh cửa sổ trong khu vườn. Hoàng Hậu không còn dịp đảnh lễ đức Thế Tôn nữa, nhưng Tiểu Liên cũng chẳng đạt được gì hơn. Từ ấy lòng ganh tức đố kỵ của Nàng ngày một sâu sắc. Rắp tâm tìm mọi cách để hãm hại, nàng mua chuộc những người hầu cận của Hoàng Hậu, nhân lúc đêm khuya nổi lửa đốt cung thất của Bà. Hoàng Hậu chết đi. Ân oán bao đời, người đã trả xong. Tiểu Liên lại vừa mới vay thêm món nợ ân tình. Trong cuộc vay trả trả vay này, người mất vẫn như còn đó, mà người còn thì lại đánh mất tất cả.

Đoàn Sa Môn hành hoá đi vào làng và thọ nhận vật thực của những người đang quỳ lạy bên đường. Tiểu Liên vẫn ngồi yên. Khoảnh khắc thời gian cứ trôi qua, rồi Nàng nhìn thấy Phật đang đi tới. Bước chân của Ngài sao tự tại, vẻ mặt của Ngài sao thanh cao thánh thiện quá. Tiểu Liên chợt nghe lòng dâng lên niềm xúc cảm của người vừa tỉnh giấc mơ hoa. Một người đã trót gây ra nhiều tội nghiệp, đã ôm ấp biết bao điều xấu xa đen tối. Ngay lúc này đây, Nàng muốn lạy xuống chân Phật, muốn nói những lời sám hối mà vẫn không thể. Tiểu Liên ngồi chồm dậy trong tư thế quỳ. Nàng nghe mặt đất dưới chân mình đang chuyển động. Màu vàng y của đức Tôn Sư luôn toả sáng, ánh bình minh từ phía chân trời cũng toả sáng. Mọi người quanh Nàng thì mãi lo tận hưởng niềm vui đạo lý bất diệt, chỉ riêng nàng là kẻ lạc loài. Một con người mang đầy mặc cảm tội lỗi …

Có vị Sư Nữ đang đi trên đường và hướng về phía Nàng. Dung nghi đỉnh đạt, phong thái uy nghiêm thanh thoát làm Tiểu Liên ngắm nhìn không chớp mắt. Vị Ni sư đến bên đưa cho nàng một gói cơm và bảo:

_ Tiểu Liên, cô hãy dùng lấy chút thức ăn này cho đở dạ.

Ngạc nhiên, Nàng không dám đón nhận, mà chỉ khẻ khàng hỏi :

_ Bạch Sư … Con không dám. Con chẳng có gì để cúng dường người cả. Nhưng sao Ni biết tên con. Người là ai …?

Vị Sư đưa cánh tay xoa nhẹ lên đầu Nàng. Tiểu Liên nghe một luồng hơi ấm tuôn chảy vào tâm não, lòng nhẹ mở như bước vào một thế giới mới lạ. Một thế giới thật sự bình yên, không còn tranh chấp theo vòng danh lợi phù hư. Thoáng chốc, giòng nước mắt tuôn dài trên gương mặt hốc hác bơ phờ. Nàng không hiểu mình khóc vì mừng vui hay buồn tủi nông nổi. Có một sự sống khác thường đang đến mà Nàng chưa bao giờ nghĩ tới. Nó như giọt nước cam lồ ngấm dần vào lòng đất làm lắng dịu hết mọi thứ vẫn đục trầm mê.

Vị Sư Nữ vẫn nhỏ nhẹ:

_ Con cứ khóc cho dù những giọt nước mắt kia chưa thể xoá sạch bao tội lỗi của kiếp người. Nhưng đó là dấu hiệu của sự hối cải, của lòng mong muốn đựơc trở về sống trong ánh từ bi pháp lạc. Còn bây giờ con ăn tạm nắm cơm này cho cơ thể tươi tỉnh lại khi vừa trải qua một đêm dài thao thức. Sau đó sẽ là một ngày dài để cho con suy gẫm những sự việc đã qua và những gì sắp đến. Bến giác bờ mê chính là lúc biết ngoảnh đầu nhìn lại. Ngày hôm qua và hôm nay đã là một kiếp đời khác. Qúa khứ vinh hoa của một thời cũng sớm trở thành giòng nước chảy mây trôi. Cởi bỏ hết thì con mới tìm ra được giá trị thiết thực cho đời sống hiện tại của mình. Nhận chân con đường thoát khổ, thì con mới tìm ra chơn lý giải thoát. Con hỏi ta là ai ư? Ngày xưa Ta cũng từng sống trong cảnh lầu son nhung gấm. Rồi cũng bao lần gặp nổi tân toan khổ lụy. Sự đời nếm trải nhiêu khê, Ta đã nuôi ý định trả thù đời bằng thứ vũ khí mà người phụ nữ vốn có. Nhưng Ta đã sớm gặp đấng từ phụ. Ta tinh tấn tu niệm trong đạo và chứng quả vô sinh bất diệt ngay nơi cõi đời sanh diệt này. Thôi bây giờ Ta phải vào thành khất thực đây. Đến trưa, Đức Thế Tôn trở về Tinh Xá dùng ngọ rồi thuyết pháp. Con nên đến nghe Ngài giảng, Ta sẽ chờ con nơi đó. Biết đâu chẳng gặp được duyên lành tỏ ngộ.

Quay đầu nhìn lại là bờ. Đơn giản như thế mà đôi khi con người ta tìm cầu suy nghiệm cả đời vẫn không thể nắm bắt được. Tiểu Liên ngỡ như mình nhận ra chơn lý ấy từ lâu lắm. Con đường trở về không xa. Chỉ vì lâu nay Nàng mãi sống trong cõi mộng, yêu thuơng buồn giận, tìm cầu danh vọng, gặt hái khổ đau cũng trong mộng. Mộng đời đã tan. Đường đạo thì hãy còn xa với kẻ lạc lầm. Cơ duyên đến …và giờ đây khi trong tay có được nắm cơm pháp vị thì cơn đói khát mệt mỏi không còn nữa. Nàng đứng dậy đi nhanh về khu Tinh Xá, nơi có dấu chân bậc đại giác, có cả hình bóng vị Ni Sư khả kính và Hoàng Hậu quá cố. Tất cả cứ hiện dần ra trên lối mòn tâm thức, để đón nhận bao cánh chim đời lạc lối quê xưa.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2010(Xem: 3501)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3134)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8764)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3894)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4276)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7420)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2751)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2964)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4440)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567