Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một chuyến trở về

10/04/201311:51(Xem: 4226)
Một chuyến trở về

canhdep_hoaphuong1

MỘT CHUYẾN TRỞ VỀ

Lam Khê

---o0o---

Tôi ra đi rồi lại trở về. Hay nói khác đi là vừa trở về, tôi lại vội vã ra đi. Những chuyện đến đi như thế thường chưa bao giờ được tính toán trước. Về ý nghĩa thì không khác, khác chăng là qua cách nhìn cách nghĩ theo từng sự kiện đến đi trong suốt cuộc hành trình nhiều rong ruỗi của mình..

Tôi phải trở về Sài Gòn trên một chuyến bay. Đó là điều nằm ngoài dự đoán của mọi người. Những tưởng sự trở về sẽ kịp nhìn thấy Sư Bà trước khi người viên tịch, vậy mà mọi việc tệ hại hơn nhiều so với điều mình dự tính. Một mình trở vào Đằ Nẵng_ Suốt chiều hôm trước, quý thầy đã chật vật chạy tìm mua vé xe không được, bèn đưa tôi ra xa lộ ngồi chờ suốt hai tiếng mà chẳng biết xúi quẩy thế nào vẫn không có được một chuyến xe xuôi vào Nam. Đến tối một phật tử lại chở tôi ra sân bay Phú Bài hy vọng có vé chờ, cuối cùng thì đến sáng hôm sau tôi đành phải ngồi xe từ Huế ra sân bay Đằ Nẵng, với sự tận tình của Thầy Tuệ- nhờ một người cháu trong đó đặt mua vé giùm. Không thể nôn nóng hơn được, tôi chỉ còn biết niệm Phật và chờ cho thời gian qua mau để mình nhanh chóng trở về.

Khi đã chấp nhận với những gì xảy ra, lòng tôi trở nên thanh thản hơn và hướng mọi tầm nhìn vào cảnh vật bên ngoài như để tận hưởng những giây phút còn lại trên chuyến trở về bất thường có phần nhanh vội này. Trước mắt tôi lại ẩn hiện những dãy núi nhấp nhô xanh rì trong ánh nắng ban mai rực sáng. Rồi từng cánh đồng phố xá xóm làng, những thung lũng thẫm màu sương khói vụt qua nhanh chóng. Còn kia là bờ biển Lăng Cô nằm bên đèo Hải Vân thơ mộng như cuốn hút lòng người vào chỗ tận cùng mênh mông của trời đất. Bầu trời trong vắt, chỉ thỉnh thoảng xuất hiện vài gợn mây xám vẩn vơ. Dường như trời cũng chiều lòng người trở lại, không đượm buồn mà vẫn sâu lắng một màu khói biếc.

Ngồi chờ nơi sân bay suốt một ngày trong bầu trời đầy nắng nóng, -chả bù với mấy hôm trước mưa tầm tã, tôi vẫn không thể nào kiếm được chiếc vé bay trước lúc năm giờ chiều, dù được nhiều người giúp đở. Cảm giác đói mệt chỉ thoáng qua, sự mong đợi trở về cũng vơi nhẹ. Giờ nầy ở chùa có nhiều người đang trông chờ, còn tôi thì cứ bình thản ngồi đây ngắm nhìn dòng người qua lại trong thế chẳng đặng đừng. Người ta bảo trong cái rủi thường có cái may, chẳng biết lúc này tôi đang gặp may hay rủi, mà sao đoạn đường trở về của mình lại lắm nhiêu khê đến vậy. Thế là một lần nữa tôi lại vay thêm món nợ ân tình với xứ Huế- Ba năm trước, lần đầu tiên về quê sau bao nhiêu năm xa cách, tôi cũng chỉ ở được dăm bữa dự đám giỗ người bác dâu, rồi quay vào Sài Gòn ngay vì việc chùa. Lần này chắc mẩm sẽ được mục kì sở thị hết các Cung điện và Lăng Tẩm một thời vang bóng của đất thần kinh. Hoặc sẽ ngồi thuyền trên dòng sông Hương thơ mộng mà ngắm nhìn về núi Ngự qua làn sương đêm mờ ảo. Ấy vậy mà… vừa đặt chân đến Huế tôi lại phải ra đi. Lòng tôi đến với Huế sao mà vội vàng và xa cách đến thế. Hởi người con của xứ miền Trung sỏi đá.

Mang tâm trạng chờ đợi nhưng lòng tôi vẫn thư thả đến lạ. Cũng buồn vì không trở về sớm cho mình bớt ray rứt, cũng tiếc vì không đi cho hết chuyến hành trình còn dài ngày qua các tỉnh miền Trung khúc ruột. Nhưng mọi việc rồi cũng sẽ qua, điều đọng lại trong tôi là chút tình người nơi sân ga cuộc sống. Nơi mà tôi vừa trải qua, chỉ vừa cảm nhận được qua hơi thở mong manh của đời người. Tôi đối với quê hương mình chưa bao giờ trọn nghĩa vẹn tình, vậy mà xứ Huế lúc nào cũng rộng lòng đón nhận những đứa con đi xa trở về thăm, dù chỉ trong giây lát. Những người chưa từng quen biết, họ luôn sẵn lòng giúp đở chia sẻ với tôi, không hẳn vì cám cảnh kẻ lỡ đường lỡ bước, mà đó là chút nghĩa tình chân thật. Một sự nhiệt tình rất trong sáng của những con người được sinh ra và lớn lên ở chốn non nước hữu tình. Như Cô Nga- nhân viên bán vé, cháu Thầy Tuệ- niềm nở ra chào hỏi khi tôi đến, và cô nhân viên trong nhà hàng bụng mang dạ chửa khi tôi vào gọi dĩa cơm trắng với chén nước tương đã không lấy tiền lại năng nổ vào tận sân bay nhờ người quen kiếm vé cho tôi đi sớm. Người chạy xe ôm từ bến xe Đà Nẵng biết tôi phải đợi đến chiều cũng tận tình chỉ vẻ nhiều điều. Chú Phật tử đưa tôi đến sân bay Phú Bài, rồi chở về trong đêm tối mà vẫn hăm hở muốn cho tôi xem qua một vòng trong Thành Nội. Tất cả mọi người -kể cả quý thầy cô ở Huế- dù chỉ mới gặp lần đầu và chắc không ai biết tôi là người đồng hương, đều tận tình tìm mọi cách để tôi được nhanh chóng trở về. Huế vừa trải qua những ngày mưa dầm rồi lại nắng nóng. Tôi trở vào Nam mang theo cả khúc ly hương sầu tiễn biệt chan chứa tình người ý đạo.

Cuối cùng thì tôi cũng lên được chuyến bay để trở về, dù có hơi muộn màng, nhưng về được vẫn là hơn không. Tôi đang trở về hay một lần nữa lại rời bỏ vùng quê cha đất tổ. Ngày trước, đứa bé gái năm tuổi theo cha mẹ đi máy bay vào Nam đã khóc ròng vì sợ chứ nào có biết gì đâu- Bây giờ hơn nửa đời hư lại bước lên máy bay, coi như là lần đầu vậy. Chẳng còn đâu cái cảm giác sợ hãi của thời thơ dại, ý tưởng rời xa quê cũng không thật rõ ràng. Tâm hồn già cỗi theo tháng năm dài lưu lạc, vậy mà vẫn chưa đánh mất đi cái chất hồn quê còn hằn sâu đâu đó trong cõi lòng. Hơn thế nữa, một chút dư vị tình người mà tôi vừa đón nhận sẽ là món quà tinh thần đầy ý nghĩa trong những năm tháng còn lại. Và biết đâu chừng, cũng sẽ giúp tôi dứt ra được cái mặc cảm về một thân phận lưu lạc bỏ quên nguồn cội. Một chuyến đi xa không đơn thuần vì ham vui, để lúc quay về, đa mang thêm tâm trạng của kẻ thọ ân chưa một lần báo đáp. Một miền quê đã xa khuất nhiều năm trong trí nhớ, vẫn mãi mãi là khoảng trời riêng cho những gã cùng tử lang thang như tôi tỏ chút lòng hoài vọng trong thâm tình cố cựu chi giao.

Ngồi trên chuyến bay trở về, lòng tôi cứ dâng lên cái cảm giác nao nao thú vị lẫn bỡ ngỡ như người nhà quê lên tỉnh, mà chính mình cũng phải bật cười. Tôi không biết làm gì khác hơn là quay ra cửa sổ máy bay để ngắm nhìn trời xanh mây trắng trong buổi chiều tàn rực nắng. Bầu trời trong xanh toả sáng nằm bên dưới mấy vạt nắng vàng ươm, tợ như một dòng chảy pha lê khổng lồ trong suốt. Còn kia là những đám mây trắng có lúc quyện dày như bông tuyết, có nơi thì tản mác lơ lững với muôn hình lắm vẻ, thật chẳng khác nào bức tranh vân cẩu biến đổi khôn lường. Bên trong khoang máy bay tai tôi vẫn lắng nghe những âm thanh ồ ồ của động cơ, tiếng cô tiếp viên hướng dẫn việc mặc áo phao, cùng nhiều tiếng động lạ, cả khi máy bay lên xuống làm cho cơ bụng co thắt lại, và hai lỗ tai cứ lùng bùng. Nhưng tâm trí và ánh mắt tôi lúc này chỉ chú mục ra bên ngoài khung cửa kiếng. Từ trên độ cao chót vót, Tôi nhìn thấy hết những làng quê xa tít nơi phía chân trời, và thầm nghĩ đó cũng là một phần quê hương mình đấy. Nơi có bờ biển cát trắng nhô cao, có dòng sông hương êm đềm phẳng lặng sớm chiều mà khách nhàn du thích tìm về thưởng ngoạn. Nơi ấy có những đồi núi màu rêu xanh nhấp nhô hùng vĩ mang hồn sắc rất riêng của xứ kinh kỳ. Lúc này tất cả cảnh vật bỗng trở nên nhỏ nhoi, nhỏ đến mức cả miền quê bao la đều nằm gọn trong tầm mắt. Những ngôi nhà, những chiếc thuyền, cả dòng xe cộ ngược xuôi, các dòng chảy của biển cả sông hồ chỉ còn là những chấm phá nhỏ xíu in trên những tấm thảm xanh trải dài giữa không gian. Miền quê hương tôi đó, dù rất bé nhỏ lại gập ghềnh sỏi đá và luôn hứng chịu cảnh thiên tai bão lụt; Vậy mà ai đi xa cũng mong muốn được trở về. Về để lại ra đi, để đem nỗi nhớ thương kia dệt nên cho đời biết bao áng văn thơ ký sự thấm đẫm chất hồn quê hồn đất.

Rời chuyến bay đời thường, tôi lại bước vào những chuyến bay khác theo lộ trình của đời sống tu sĩ, mà chuyện tử sinh cơm áo đôi khi cũng làm vướng bận manh áo nâu sồng, chùn bước chân kẻ sĩ. Thế nhưng trên các ngã rẽ của cuộc đời, vẫn không thiếu những trang sách đạo tình để cho tôi được góp lòng mình trên đó gọi... là đền ơn tri ngộ với bạn đồng thanh, và cũng là báo đáp chút tình thâm với nơi mình đã cất tiếng khóc chào đời. Một mảnh tình quê, mấy lần xuôi ngược, ai đến ai đi rồi cũng sẽ có một ngày trở về với nơi sâu thẳm nhất của cội nguồn. Một dòng sông, mấy mươi lần rẽ sóng, điểm cuối cùng vẫn là biển cả mênh mông.

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5757)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4701)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4299)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37233)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5350)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8754)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4431)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13747)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21078)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6677)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]