Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nén hương trầm

10/04/201311:50(Xem: 6211)
Nén hương trầm

nenhuong_incense1

Nén hương trầm

Lam Khê

Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường tha thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm đầy những hang hốc. Lúc này cảnh núi rừng mới thật sự trở lại với vẻ hoang sơ thanh tịnh yên lành. Màu xanh thẩm của núi đồi trải dài đến ngút mắt, quyện với màu mây trời bàng bạc trên cao trông như tấm thảm nhung bao bọc mọi cảnh vật nơi này khi đêm xuống.

Dọc theo triền dốc núi toạ lạc rất nhiều ngôi chùa lớn nhỏ, những ngôi Tịnh viện, Am thất làm bằng tre lá đơn sơ cũng nằm rải rác khuất sau mấy rặng cây rừng. Từ chân núi lên đến đỉnh phải vượt qua hơn ngàn bực thang cấp. Những bực thang này mới được xây dựng vài năm nay khi Hoà Thượng về trụ trì ngôi tổ đình trên đó. Tổ Đình cũng vừa sửa sang lại trông bề thế và khang trang hẳn lên, xung quanh có nhiều di tích mang đậm dấu ấn truyền thống Phật Giáo lâu đời. Khách hành hương chủ yếu lên đây vãng cảnh, tham quan lễ lạy mấy ngôi bảo tháp của chư vị Tổ Sư tu hành đắc đạo từ thuở xa xưa từng lưu tích lại. Hoà Thượng chỉ về đây vào những ngày rằm, lễ lớn để giảng pháp kéo theo một số Tăng Ni phật tử quy tụ rất đông đảo. Xe du lịch xe đò đậu san sát dưới chân núi. Lúc này tụi con nít bán hàng rong, bán quà lưu niệm và cả bán nhang dạo như Hoàng thì tha hồ chạy theo chèo kéo nài nỉ khách mua cho được một vài bó hương nhỏ.

Hoàng chợt nghe có tiếng chuông vang lên từ một hang động bên kia. Tiếng chuông nhẹ như làn gió thoảng qua tai, giữa cái nắng chiều bảng lảng đang khuất dần phía chân trời càng thôi thúc bước chân nó tiến tới. Dù quanh quẩn nơi ngọn núi này đã lâu nhưng Hoàng chưa bao giờ dám vào sâu. Nó nghe người ta nói có nhiều vị thầy chuyên tu thường đến ở trong các hang động đó. Một nơi vắng lặng như thế thì khách hành hương ít lui tới, hoạ hoằn lắm cũng có người vì cám cảnh thiên nhiên hùng vĩ hay thích tìm chút thư thái cho tâm hồn nên mới lạc bước vào. Đối với thằng Hoàng, việc Nó thích đến những chốn không người này chỉ vì muốn tránh xa mọi sự huyên náo bẩn chật quen thuộc cứ tái hiện trước mắt hằng ngày. Trong thế giới trẻ thơ bươn chải như nó cũng lắm cảnh ẩu đả tranh dành lãnh địa khách hàng. Hoàng không muốn như vậy, nhưng cũng không thể làm gì khác hơn được.

Tần ngần đứng trước một cửa hang động, Hoàng vẫn chưa dám nhìn vào trong. Mãi khi nghe giọng niệm Phật nho nhỏ hoà cùng tiếng chuông ngân rất khẻ thì nó mới mạnh dạn đi tới. Hơi e ngại vì cảnh tranh tối tranh sáng, Hoàng cố mở mắt to ra nhìn và thấy một vị Sư đắp y vàng đang ngồi niệm Phật chính giữa nhà. Phía trên cái kệ thấp có đặt bức tượng Phật nhỏ, mà sao không thấy có nhang đèn gì cả. Hoàng ngập ngừng nhìn nén nhang trầm còn lại đang cầm trên tay. Nén nhang này nó lấy vốn hơn mười mấy ngàn vẫn chưa bán hết. Nghĩ ngợi một chút Hoàng liền mở bao lấy ra một cây nhang rồi bật quẹt ga đốt lên như nó vẫn thường hay giúp khách khi họ hành hương cúng Phật. Hoàng bước tới thắp cây nhang lên bàn Phật và đặt luôn nén nhang bên cạnh đó. Xong nó trở lui ra ngồi phía sau, chắp tay nghiêm trang nhìn lên bàn Phật. Tượng Phật mới uy nghi rạng rỡ làm sao. Mùi hương trầm dìu dịu, làm nhẹ bớt mọi nỗi suy tư của kẻ trần tục. Vị sư tụng niệm rồi yên lặng tịnh toạ. Hoàng nhìn vị sư với vẻ cảm kích sâu xa. Chắc người đã biết có kẻ đột nhập vào đây nhưng vẫn ngồi yên. Hoàng bắt chước tư thế của vị sư, song chỉ được một chút thì mắt nó đã lim dim, cơn buồn ngủ kéo đến. Chưa bao giờ Hoàng ngủ nhanh đến thế. Một giấc ngủ bình yên không bị vấy đục bởi những toan tính vật vã đời thường.

Hoàng thức dậy khi nghe tiếng chim hót líu lo rộn rã ở ngoài hiên. No ù đưa mắt nhìn quanh, không thấy vị sư đâu cả. Mùi hương trầm lan toả thật dễ chịu trong một không gian êm đềm lắng động. Đứng dậy vươn vai bước ra sân, Hoàng bắt gặp cảnh núi rừng vào buổi sáng thật tuyệt vời. Từng cụm sương mù phất phơ len lõi trên đỉnh núi, tạo nên một màng tơ mỏng ôm lấy bầu trời sâu thẩm mênh mông. Còn dưới mặt đất, những loài thảo mộc xanh như nhung thì tha hồ chen chúc quanh các thân cây cổ thụ to lớn.. Tiếng gió, tiếng chim và cả tiếng suối róc rách chảy xuyên qua kẻ núi dìu dặt tạo nên một khúc nhạc rừng êm ái vui tai. Hoàng chưa từng nhìn thấy một buổi sáng yên tịnh và thuần tuý thơ mộng như thế này. Đơn giản chỉ vì nó theo chân những đoàn du khách đến đây khi nắng đã lên cao, cũng chẳng có tâm trí đâu mà ngắm cảnh trời mây non nước. Hoàng không ngờ mình vừatrải qua đêm trong ngôi thạch động này, được đắp lên mình chiếc y vàng của vị Sư, mùi nhang trầm dường như được thắp suốt đêm. Không biết vị Sư có ngủ không khi nhường chiếc chiếu duy nhất cho nó nằm. Và người đã đi đâu mất rồi nhỉ?. Nghĩ vậy thôi, vì bây giờ nó phải xuống núi. Hôm nay ngày rằm, sẽ có nhiều khách hành hương. Hoàng đi quanh mà vẫn không thấy vị Sư đâu cả. Ánh nắng đầu tiên đã lọt vào khe động. Núi rừng đang bước vào một ngày mới. Từng bước chân người rộn rã xuống lên. Có biết bao niềm tin và ước nguyện từng được khơi dậy ở giữa chốn tịch nhiên này.

Từ đó mỗi buổi chiều Hoàng thường ghé vào tịnh thất của Sư, có khi nghỉ lại cả ban đêm. Những lúc vắng khách, nó có mặt ở đây luôn để phụ Sư chút công việc như quét tước nhổ cỏ xung quanh hang động, rồi xuống suối xách vài can nước lên. Sư hay để dành phần cơm bánh mà phật tử hay trên Tổ Đình mang xuống cho. Ngày qua ngày nó càng cảm mến đức độ của Sư và yêu thích không khí tĩnh lặng trang nghiêm của thạch động. Thích nhất là nghe Sư nói chuyện. Một thằng bé bán nhang vô gia cư, lại được Sư chuyện trò thân mật như thâm tình thầy trò, Người chỉ dạy tận tình cho nó về những điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Những câu chuỵên Phật Pháp, những bài kinh tụng vỡ lòng ít nhiều cũng giúp cho Hoàng có đôi chút nhận thức sâu xa ý vị ….

Hằng đêm Hoàng thích ngồi nhìn Sư tĩnh toạ dưới ngọn nến lung linh và khói hương trầm toả ngát. Màu vàng y người đắp cũng sang rực lên một cách kỳ diệu. Những lúc này Hoàng cũng ngồi thật yên lặng phía sau, tư tưởng của nó chẳng khác nào như đóm lửa nhỏ nhoi được toát lên từ một niềm tin, từ lòng cảm khái và biết ơn. Rồi cũng như mọi lần nó ngủ liền sau đó không lâu trong cảnh đêm tịch mịch của núi rừng. Thỉnh thoảng trong tiềm thức nó còn nghe cả tiếng chuông ngân văng vẳng vọng về từ cõi xa xăm.

Một hôm khi Hoàng mang đến một bó hương trầm khác đặt lên kệ Phật thì Sư bảo :

_ Nhang trầm mắc lắm sao con không để bán. Cúng nhang thường cũng được rồi. Vậy để Sư gởi tiền lại nhé.

_ Dạ thôi bạch Sư. Cũng không bao nhiêu, để con cúng dường cho có phước. Miễn Sư cho con đến đây thường là được.

Vẻ mặt hiền từ của Sư thoáng chút đăm chiêu. Sư nhìn thằng bé giây lâu rồi cất tiếng nói:_ Tuần tới Sư xuống núi trở về chùa rồi. Chúng ta biết có còn nhân duyên gặp nhau nữa không ?

Thằng Hoàng ngơ ngác, cất giọng run run :_ Vậy Sư không ở đây nữa à?

Sư lắc đầu nói khẻ:_ Sư thích khung cảnh ở đây nên xin Hoà Thượng về tịnh tu ba tháng. Nay phải trở về chùa lo công việc, mấy chú tiểu lại sắp đi học. Nếu có dịp Sư cũng sẽ trở lại. Con ráng sống cho tốt, quý thầy trên Tổ Đình cũng thương con lắm.

Hoàng im lặng, lòng Nó chùng xuống buồn bã mà chẳng biết phải nói gì đây. Sư chỉ lưu lại đây để tịnh tu ba tháng. Còn nó mãi mãi là thằng bé bán nhang, dù ở giữa trời đất bao la nhưng lại chẳng có một nơi chốn để đi về.

_ Hoàng à! Sư gọi khi nó đang quay mặt ra sân với vẻ thẩn thờ- Sư và con đã có nhân duyên gặp gỡ ở đây. Thấy con hiền lành đôn hậu lại ưa thích học hỏi, nên Sư cũng có ý định như vậy. Nếu con bằng lòng Sư sẽ mang con về chùa cho đi học cùng với mấy chú tiểu. Sau này trưỏng thành con muốn tu hay làm việc gì cũng hơn là ở đây lăn lộn với nghề bán nhang._ Sư cười thật hiền – con cứ suy nghĩ kỹ đi rồi cho Sư biết.

Những lời nói của Sư đã mở ra cho Hoàng biết bao là ước vọng. Nhưng nó vẫn chưa biết phải trả lời Sư như thế nào. Hoàng bước ra sân, đến ngồi dưới gốc cây tràm trầm ngâm nghĩ ngợi. Về với Sư, lại được đi học. Nó còn mơ ước gì hơn nữa chứ. Về với Sư nghĩa là nó phải giã từ cảnh núi rừng bình yên này với lắm cảnh đẹp như tranh, với những ngôi chùa, những toà Bảo Tháp mà nó mỗi ngày tới lui nhìn ngắm. Trong cuộc sống hằng ngày, lòng nó đã từng dấy lên một nỗi niềm khao khát chờ đợi. Và bây giờ nhìn lại quãng đời trải qua cùng nhiều viễn cảnh sắp tới, Hoàng chợt reo lên nho nhỏ:“ Một ngày nào đó khi ánh dương tỏ rạng, biết đâu mình sẽ trở lại nơi này. Phải, biết đâu được. Cuộc đời luôn tiềm ẩn bao điều kỳ diệu đến không ngờ…”

Ngôi Chùa hoang dưới chân núi gần năm nay đã có vị Sư trẻ về trụ trì. Đất bên hông chùa còn một khoảnh rộng, vị Sư cho xây cất thêm mấy dãy nhà ngang dọc lớn nhỏ. Có ai hỏi thì Sư nói :

_ À! Tôi định mở một lớp học tình thương giúp trẻ con nghèo ở đây được đến lớp học hành ấy mà. Lại có cả khu nhà Mở để các em bé, những người buôn bán dạo không nhà cửa khi đêm về có nơi trú ẩn.

Mọi ngưới có vẻ thắc mắc lắm, nhưng Họ chẳng biết gì về vị Sư mới đến này. Chỉ có quý thấy lớn ở đây thì biết rõ về chú bé bán nhang dạo của hai mươi năm về trước. Chú bé thường len lén đứng ngoài hiên nghe Hoà Thượng thuyết pháp. Sau đó, nó theo vị Sư trở về chùa miền xuôi. Chú bé được vị Sư nuôi ăn học, rồi chú xuất gia, được thầy gởi đi học các nơi. Khi đã mãn các khóa học, ước nguyện của vị Sư trẻ là được trở lại nơi này. Thầy muốn làm một điều gì đó để trả ơn cuộc đời, trả ơn cho một nhân duyên kỳ ngộ của những ngày xa xưa ấy. Mấy năm trước, khi Sư phụ viên tịch, thầy giao chùa lại cho quý sư huynh sư đệ, rồi thu xếp một mình lên đây với nhiều dự tính trong lòng. Thầy vẫn nghĩ ngọn núi này chính là nơi phát tích cho sự nghiệp tu hành của mình. Bao năm rồi lòng thầy cứ hướng về chốn cũ, nơi có những mảnh đời mà Thầy từng trải qua. Những cuộc đời cần được ai đó nâng đở dìu dắt để được tiến xa hơn trong cuộc sống, để được trở về với bổn tánh thuần chơn muôn thuở.

Chiều chiều, vị Sư thường thả bộ lên ngôi thạch thất nằm bên lưng sườn núi. Thắp một nén hương trầm, thầy ngồi yên tịnh trước bàn Phật cho đến khi trời tối hẳn. Thầy đang tưởng nhớ đến vị ân sư khả kính của mình. Người đã sống trọn đời cho đạo pháp. Người đã đem ánh đuốc từ bi soi sáng đến cho muôn loài. Nơi đây, thằng bé bán nhang đã đặt một nén hương cúng dường đầu tiên. Mùi hương trầm ngày ấy đã theo dòng chuyển biến của thời gian mà lòng thầy vẫn thấy nó thơm ngát quyện toả đến tận bây giờ. Cảnh núi rừng vẫn thiêng liêng kỳ vĩ để lòng người trở về, cùng trang trải ân tình một thuở chưa xa...

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 10652)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 16780)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9186)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3276)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10362)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3119)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5607)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16607)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8545)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
26/01/2013(Xem: 10743)
Cận cảnh tượng cụ Nguyễn Du bằng gỗ gù hương khủng ở Việt Nam
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]