Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng vọng ban mai

10/04/201311:46(Xem: 4269)
Tiếng vọng ban mai

mountain_1

image001Tiếng vọng ban mai

Lam Khê

Đứng trên ban công- nơi đỉnh tháp cao nhất- có thể phóng tầm mắt nhìn khắp các dãy núi nhấp nhô mờ ảo trong đám sương mù. Nhiều buổi sáng rồi, thầy Đức Sơn đã leo lên tới đỉnh tháp này. Thầy đứng lặng lẽ … tựa hồ như đang ngắm nhìn cảnh vật trong buổi sớm mai, hay khảo sát mọi công trình còn xây dựng dở dang bên dưới. Ngoài xa kia là mấy cánh rừng tràm bị đốt cháy trụi chỉ còn trơ lại những gốc cây đen nhẻm. Vậy mà một vài chồi xanh vẫn nức mầm trổi dậy, vừa để thách thức với sự nghiệt ngã của cuộc đời, vừa muốn chứng tỏ một sức mạnh tâm linh luôn tiềm tàng đâu đó bên trong lòng đất.

Ba tháng trở lại sau hơn mười năm xa vắng, thầy cũng chỉ nghĩ mình là một kẻ xa lạ. Xa lạ với nơi chốn thân quen từ thời thơ bé càng khiến cho lòng người thêm nỗi ray rứt băn khoăn. Mười năm nơi phố thị, thầy đã trải qua các trường Phật học, Cao đẳng rồi Đại học. Mỗi khóa học thầy đều đạt các thứ hạng cao và do đó niềm ước vọng cũng dần cao theo năm tháng. Một chút hồn quê còn vương vấn trong lòng thầy, chẳng khác nào như viên sỏi ném vào tận cùng mênh mông của trời đất. Khi thầy chuẩn bị xong thủ tục để đi du học dài hạng tại Ấn Độ thì cũng vừa nhận được tin, Sư phụ viên tịch ở độ tuổi mới ngoài năm mươi, với lời di chúc: Mong muốn thầy trở về kế thừa tông môn, tiếp tục truyền hóa đạo pháp của Tôn Sư ở quê nhà. Nhận lời di ngôn của sư phụ, thầy Đức Sơn lâm vào tình cảnh của kẻ ở đi đều không đành đoạn. Thầy đã định giao Chùa lại cho sư đệ Đức Nhật để mình được rảnh rang du học ít năm. Nhưng sư đệ vốn là người thích tiêu dao trong cảnh nhàn cư bất nhiễm, đâu ham gánh vác chuyện chùa chiền. Vừa xong tuần thất bốn mươi chín ngày của sư phụ, sư đệ đã lên gặp thầy:_Em lên từ giả sư huynh đây.

Thầy ngạc nhiên:_Sư đệ đi đâu?

_Em vào thiền viện chuyên tu. Lâu nay vì muốn phụ giúp thầy nên em còn chần chờ. Bây giờ thì Sư Phụ đã viên tịch, bổn tự đã có sư huynh về kế thừa đảm nhiệm, vậy em xin được đi theo ý nguyện của mình.

Thầy cố dùng lời lẽ thiệt hơn, đem hết tình nghĩa đệ huynh ra thuyết phục mà cũng không lay chuyển được lòng sư đệ. Suốt ba tháng trời thầy cứ đi đi về về mà tâm trí mãi phân vân chưa quyết. Công việc chùa đã có mấy chú tiểu và các cụ già công quả lo toan. Nhưng cảnh Thiền môn ngày càng vắng vẻ quạnh hiu. Trước đây sư phụ vốn là người có nhiều tâm huyết và năng nổ trong việc mở mang đạo hóa. Suốt mấy mươi năm, một mình người lo phát rẫy trồng cây gây rừng, sửa sang chùa chiền, tạo nên bao cảnh quan thật trù phú. Sự phụ dự định mở khóa tu định kỳ hằng năm cho Chư Tăng và Phật tử, nên cho xây dựng những dãy nhà ngang bên hiên chùa. Ngoài ra, có cả lớp học tình thương để dạy chữ và giáo lý cho trẻ em thất học ở quanh vùng. Những dự án còn đang dang dở thì người lâm trọng bịnh. Sư phụ ra đi đột ngột làm ngưng đọng hết mọi công trình và việc đi du học của thầy cũng đành gác lại. Mọi người đều kỳ vọng thầy trở về tiếp tục sự nghiệp. Nhưng thầy biết mình không đủ khả năng và đầy tâm huyết như sư phụ. Hơn nữa, lòng thầy đang ôm ấp nhiêù hoài bảo khác. Thầy những muốn đem tài học của mình phục vụ cho những mục đích cao rộng hơn là phải dừng chân nơi vùng đất xa xôi hẻo lánh này.

Sương mù đã tan….bầu trờì trở nên thoáng mát trong xanh khác thường. Thầy Đức Sơn rời khỏi ngọn tháp, chậm rãi đi ra phía khu rừng tràm. Cánh rừng trong buổi sớm mai vẫn còn hăng hắc mùi hương của nhựa cây hòa lẫn trong mùi sương đêm lãng đãng. Không cảnh yên tĩnh cùng với khí hậu trời thu mát dịu chẳng làm cho tâm hồn thầy dễ chịu hơn chút nào. Cánh rừng tràm quen thuộc in dấu một thời để chỏm ham tu mà vẫn thích chơi đùa nghịch ngợm. Thầy nhớ có một lần cùng sư đệ vào rừng hái nấm tràm, và bắt cả Dế đem về chơi đá với nhau. Sư phụ rầy, bảo đem thả Dế lại sau vườn cho nó được tự do. Con Dế được tự do chui ngay xuống lòng đất dưới bụi cỏ để tránh sự rình rập của con người. Con người dù được tự do bay khắp cả bầu trời, vậy mà có khi lại rơi vào thế không thể tự chủ được mình.

Thầy đứng lại dưới dàn hoa thiên lý bên một ngôi thiền thất. Đây là thất của sư bác Quản chúng, trước vẫn theo phụ giúp với sư phụ. Nay già yếu lại bịnh hoạn nên người mới cất riêng tịnh thất ở nơi này.

_ Mô Phật! Chào thầy trụ trì. Đi đâu mà sáng sớm lạc vào đây vậy. Xin mời vào trong này cùng uống chén trà sen cho ấm.

_ Dạ! Dạo này sư bác có khỏe không mà con thấy người ít qua bên chùa?

_ Bác có qua chứ. Tại thầy không về thường nên chẳng thấy đó thôi.

Thầy bước vào bên trong, kéo chiếc ghế mây ngồi đối diện với sư bác. Mùi trà sen thoang thoảng nhẹ nhàng tạo cho thầy cái cảm giác ấm cúng thân tình. Lâu lắm rồi thầy mới ngồi lại để uống trà đàm đạo với sư bác. Cũng với khung cảnh này nhưng tâm trạng thầy đã khác xưa. Khi ấy thầy là một học tăng nhiều ước vọng cao xa, mỗi lần về ghé qua Sư Bác vừa chuyện vãn thăm viếng vừa ngầm bộc lộ sự học hành thăng tiến của mình.

Sư bác chậm rãi rót trà ra tách cho thầy rồi nhẹ nhàng cất tiếng hỏi:

_ Dường như thầy không được vui. Buồn vì sư phụ mất sớm, hay việc du học bị gián đoạn? Cuộc sống ở đây chắc không phù hợp với chí của thầy. Vậy ý nguyện của thầy như thế nào?

Thầy hớp từng ngụm trà thơm, nhìn mông lung ra phía trước sân. Lác đác vài chiếc lá vàng rơi rụng hồi đêm nằm yên lặng trên mặt đất đầy vẻ cam chịu. Thầy hiểu, con người đôi khi cũng phải trải qua những cuộc chiến đấu đơn độc đối với bản thân. Được lời của sư bác như tiếp thêm sức, thầy bắt đầu nói. Thầy nói như chưa từng nói. Bao nhiêu tâm tư, rồi bấy nhiêu nguyện vọng lại được dịp tuôn ra. Sư bác chăm chú lắng nghe, thư thả châm trà thêm vào tách. Hơi trà bốc lên tỏa hương thơm nhè nhẹ theo gió thoảng bay đi, chỉ còn động lại nơi đây hai tâm hồn một già một trẻ cùng với bao nỗi cảm thông chia sẻ

Đợi cho thầy giải bày xong, sư bác mới tiếp lời. Người thông thả nói. Không một lời khuyên nhủ,không phân tích sự việc đúng sai. Người chỉ nói đến chuyện đời chuyện đạo. Chuyện ngày xưa chuyện bây giờ. Chuyện về những người trong thời kỳ nam tiến đi mở đất phá rừng. Họ kiên nhẫn miệt mài không vì cuộc sống của riêng mình, mà cho muôn thế hệ đời sau. Ai lại không có một thời tuổi trẻ thích rong chơi tìm kiếm, thích bới mộng tìm mơ. Điểm dừng đôi khi chỉ từ một khúc quanh ngã rẽ, nhưng lại có thể làm sáng lên một chân hướng khác. Tuổi trẻ bây giờ sống với quá nhiều ước mơ nên hay xa vời thực tế. Người biết ước mơ là đang nuôi dưỡng cho mình những lý tưởng cao đẹp. Nhưng lý tưởng của người tu sĩ ở ngay trong những việc làm dàn trải thông thường hằng ngày. Một nếp sống yên vui, một tâm hồn an định. Người biết sống vì mình vì ngừơi, biết yêu cái đẹp bên ngoài để hoàn thiện những cái đẹp của tâm hồn, thì đối với hoàn cảnh nào vẫn an nhiên tự tại.

Thầy từ giã ngôi thiền thất khi ánh ban mai chiếu những tia nắng đầu tiên xuống mặt đất. Những tia nắng vàng. Bầu trời trong xanh. Vạn vật tỏa sáng, làm cho núi rừng rạng rỡ … và không gian cùng cảnh vật bỗng trở nên thâm diệu vô cùng. Khi bước lên một ngọn đồi thấp, thầy chợt nghe có tiếng hát vang vọng từ phía bên kia. Một đoàn thanh thiếu niên Phật tử đang sinh hoạt ca hát. Thấy thầy đi qua, tất cả đều đứng dậy xá chào. Từng khuôn mặt trẻ trung toát lên vẻ hớn hở vui tươi pha lẫn niềm tin tưởng kính trọng. Sức sống của núi rừng dường như luôn ánh hiện trên những nụ cười ánh mắt đó. Ánh mắt của những tâm hồn biết sống, biết yêu thương cuộc sống. Lời sư bác nói vẫn còn văng vẳng bên tai thầy: “Tất cả mọi người đều mong đợi con về. Dù vậy con cứ hướng theo con đường mà mình đã định. Đạo phật là đạo giải thoát. Người tu hành tìm cầu giải thoát ngay trên mọi việc làm và ý tưởng tự nguỵên chứ không phải là sự gượng ép bó buộc”.

Trên con đường mòn nhỏ, những bác nông dân tay cầm cuốc xẻn đang đi tới. Họ dừng lại cúi chào thầy. Một vị lớn tuổi nhất bước lại thưa:

_Bạch thầy! Như vậy là thầy đã về đây hẳn rồi. Chúng con mừng lắm. Từ ngày thầy trụ trì viên tịch chúng con vẫn mong mỏi có thầy về. Vậy là từ nay ngôi Tam Bảo đã có người phụng sự lo toan và chúng con cũng được theo thầy để học đạo nghe pháp.

Thầy gật đầu cười với họ, hỏi thăm một vài câu thân tình ngắn ngủi. Cuộc sống đôi khi đơn giản hơn thầy nghĩ nhiều. Bởi vì thầy những muốn làm trăng sao chiếu sáng cả bầu trời, nên không nhận thấy rõ rằng: Chỉ cần một ngọn đèn nhỏ cũng đủ làm ấm lại bao tấm lòng người đang khao khát ánh đạo vàng nơi tận vùng quê heo hút này.

Về tới cổng chùa đôi chân thầy thoăn thoắt bước nhanh trên các thềm đá sỏi. Trước sân có vài người phật tử dáng vẻ trầm ngâm đang đi đi lại lại. Thấy Thầy họ ngần ngại như định nói điều gì. Thầy liền khóat tay với họ:

_Ngày mai mấy bác gọi thợ tới khởi công làm ngay đi. Phải khẩn trương cho xong các công trình trong năm nay. Đầu năm tới, vào ngày tiểu tường của Sư Phụ, Thầy sẽ tổ chức khánh thành và chuẩn bị mở khóa tu đầu tiên.

Sự hân hoan và mãn nguyện làm tan biến hết những nét hằn lo toan từ bấy lâu nay. Mọi người bắt tay vào công việc với tất cả niềm lạc quan tin tưởng. Nắng đã lên cao. Một ngày mới đang tiếp diễn. Thầy đứng nhìn ngọn tháp, nơi yên nghỉ của sư phụ, để nghe sâu xa trong cõi lòng mình bao thinh âm của ánh đạo mầu. Đây mới chính là cuộc sống. Cuộc sống thật sự bắt đầu từ những tia nắng ban mai vọng về trong tiềm thức, cuộc sống bắt đầu khi lòng người chợt nhận ra sự hiện hữu của chính mình ngay trong từng tâm niệm trở về.

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 10856)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
29/03/2013(Xem: 17309)
Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Cảo thơm lần giở trước đèn, Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
29/03/2013(Xem: 9317)
Chuyến hành hương Thái Lan và Nhật Bản bắt đầu từ ngày 22 tháng 10 đến mùng năm tháng 11 năm 2012, vào một sáng mùa thu với nắng vàng ươm và se se gió lạnh. Có ai biết con số ghi tên tham dự chuyến hành hương Nhật Bản này lên đến bao nhiêu không? Trước giờ khóa sổ vào đầu tháng 10 là hơn một trăm vị, sau rút lui từ từ để dừng lại con số 85 với 14 quốc gia trên thế giới. Một con số đáng ngại trong lịch sử đi hành hương của quý Thầy.
20/03/2013(Xem: 3347)
Tác giả sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bút ký về California lãnh Giải Thưởng do ông Luận viết. Bài đã phổ biến trong sách VVNM 2001, nhưng “mất tích” trên Việt Báo Online. Xin mời cùng đọc lại. Hình trên, từ trái: Thượng Nghị Sĩ California, Ông Joe Dunn và các viên chức dân cử khai mạc cuộc họp mặt. Phía trái là nữ nghệ sĩ Kiều Chinh. Phía mặt là cô Leyna Nguyen của truyền hình KCAL9.
19/03/2013(Xem: 10547)
Tập truyện “ Làng Cũ - Người Xưa” của Tiền Vĩnh Lạc (Australia) .Sách dầy 216 trang, bìa cứng 4 màu. Bìa trước cảnh nhóm chợ chồm hỗm ở làng quê tỉnh Trà Vinh. Bìa sau hình xe thổ mộ, ngưa kéo, tác giả gọi là “xe kiếng”? Nội dung gồm nhiều truyện ngắn, hồi ký, tài liệu quý giá...cùng nhiều kinh nghiệm sống viết ra ý chừng muốn khuyên răn con cháu, sách đọc thú vị và cần thiết để làm tài liệu nghiên cứu. Sách không bán, in để tặng . Ai cần xin gọi 618-8932- 3912
10/03/2013(Xem: 3207)
Nước Xá Vệ có cô gái nghèo tên Nan Đà, thân thế cô độc thân, sống bằng nghề ăn xin. Bấy giờ, cô thấy các vị vua chúa, quan đại thần, trưởng giả cúng dường Phật và chư Tăng, cô tự nghĩ: “Ta mắc tội báo gì mà sinh vào nhà bần tiện như thế này nên không thể cúng dường đấng phước điền?”. Cô tự hối trách lấy mình.
04/03/2013(Xem: 5728)
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
20/02/2013(Xem: 16814)
Những Câu Chuyện Linh Ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát (trọn bộ 03 tập) do HT Thích Như Điển dịch Việt: Năm 2007 khi chúng tôi đang nhập thất tại Úc Châu thì có một Phật Tử tên là Huỳnh Hiệp từ Hoa Kỳ có liên lạc qua bằng E-mail cho Thầy Hạnh Tấn và nhờ tôi phiên dịch tác phẩm "Những mẩu chuyện linh ứng của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Fuchù - Nhật Bản“ từ tiếng Nhật sang tiếng Việt. Tôi bảo cứ gởi một số chuyện tiêu biểu sang Úc, tôi dịch thử. Nếu đồng ý với cách dịch ấy thì tôi sẽ tiếp tục. Sau một tuần lễ, tôi gởi trở lại 3 chuyện đầu đã dịch của quyển một cho Phật Tử nầy và anh ta rất hoan hỷ và nhờ tôi dịch tiếp cho đến hết quyển sách. Tôi trả lời rằng: "Tôi rất sẵn sàng; nhưng tôi rất ít thì giờ; khi nào xong tôi chưa biết; nhưng tôi sẽ cố gắng. Đồng thời việc đánh máy sẽ giao cho các anh chị em thực hiện". Cầm quyển sách trên tay độ 400 trang A4 thấy cũng hơi nhiều; nhưng thôi, cứ cố gắng vậy. Ông bà mình thường nói: „Kiến tha lâu đầy tổ“ quả câu nầy chẳng sai chút nào.
01/02/2013(Xem: 8670)
Tuổi Hồng Con Gái là tác phẩm đầu đời của tôi được viết vào năm 1980 cùng thời gian với tấm ảnh ngoài bìa sách. Tuy lúc đó sống ngay trên quê hương Việt Nam với dân số đông đảo mấy chục triệu người nhưng xung quanh tôi, vì hoàn cảnh hết sức đặc biệt, tôi không có lấy một người bạn, một người thân để tâm tình những lúc vui, buồn trong cuộc sống.
26/01/2013(Xem: 11256)
Cận cảnh tượng cụ Nguyễn Du bằng gỗ gù hương khủng ở Việt Nam
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]