Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng vọng ban mai

10/04/201311:46(Xem: 4175)
Tiếng vọng ban mai

mountain_1

image001Tiếng vọng ban mai

Lam Khê

Đứng trên ban công- nơi đỉnh tháp cao nhất- có thể phóng tầm mắt nhìn khắp các dãy núi nhấp nhô mờ ảo trong đám sương mù. Nhiều buổi sáng rồi, thầy Đức Sơn đã leo lên tới đỉnh tháp này. Thầy đứng lặng lẽ … tựa hồ như đang ngắm nhìn cảnh vật trong buổi sớm mai, hay khảo sát mọi công trình còn xây dựng dở dang bên dưới. Ngoài xa kia là mấy cánh rừng tràm bị đốt cháy trụi chỉ còn trơ lại những gốc cây đen nhẻm. Vậy mà một vài chồi xanh vẫn nức mầm trổi dậy, vừa để thách thức với sự nghiệt ngã của cuộc đời, vừa muốn chứng tỏ một sức mạnh tâm linh luôn tiềm tàng đâu đó bên trong lòng đất.

Ba tháng trở lại sau hơn mười năm xa vắng, thầy cũng chỉ nghĩ mình là một kẻ xa lạ. Xa lạ với nơi chốn thân quen từ thời thơ bé càng khiến cho lòng người thêm nỗi ray rứt băn khoăn. Mười năm nơi phố thị, thầy đã trải qua các trường Phật học, Cao đẳng rồi Đại học. Mỗi khóa học thầy đều đạt các thứ hạng cao và do đó niềm ước vọng cũng dần cao theo năm tháng. Một chút hồn quê còn vương vấn trong lòng thầy, chẳng khác nào như viên sỏi ném vào tận cùng mênh mông của trời đất. Khi thầy chuẩn bị xong thủ tục để đi du học dài hạng tại Ấn Độ thì cũng vừa nhận được tin, Sư phụ viên tịch ở độ tuổi mới ngoài năm mươi, với lời di chúc: Mong muốn thầy trở về kế thừa tông môn, tiếp tục truyền hóa đạo pháp của Tôn Sư ở quê nhà. Nhận lời di ngôn của sư phụ, thầy Đức Sơn lâm vào tình cảnh của kẻ ở đi đều không đành đoạn. Thầy đã định giao Chùa lại cho sư đệ Đức Nhật để mình được rảnh rang du học ít năm. Nhưng sư đệ vốn là người thích tiêu dao trong cảnh nhàn cư bất nhiễm, đâu ham gánh vác chuyện chùa chiền. Vừa xong tuần thất bốn mươi chín ngày của sư phụ, sư đệ đã lên gặp thầy:_Em lên từ giả sư huynh đây.

Thầy ngạc nhiên:_Sư đệ đi đâu?

_Em vào thiền viện chuyên tu. Lâu nay vì muốn phụ giúp thầy nên em còn chần chờ. Bây giờ thì Sư Phụ đã viên tịch, bổn tự đã có sư huynh về kế thừa đảm nhiệm, vậy em xin được đi theo ý nguyện của mình.

Thầy cố dùng lời lẽ thiệt hơn, đem hết tình nghĩa đệ huynh ra thuyết phục mà cũng không lay chuyển được lòng sư đệ. Suốt ba tháng trời thầy cứ đi đi về về mà tâm trí mãi phân vân chưa quyết. Công việc chùa đã có mấy chú tiểu và các cụ già công quả lo toan. Nhưng cảnh Thiền môn ngày càng vắng vẻ quạnh hiu. Trước đây sư phụ vốn là người có nhiều tâm huyết và năng nổ trong việc mở mang đạo hóa. Suốt mấy mươi năm, một mình người lo phát rẫy trồng cây gây rừng, sửa sang chùa chiền, tạo nên bao cảnh quan thật trù phú. Sự phụ dự định mở khóa tu định kỳ hằng năm cho Chư Tăng và Phật tử, nên cho xây dựng những dãy nhà ngang bên hiên chùa. Ngoài ra, có cả lớp học tình thương để dạy chữ và giáo lý cho trẻ em thất học ở quanh vùng. Những dự án còn đang dang dở thì người lâm trọng bịnh. Sư phụ ra đi đột ngột làm ngưng đọng hết mọi công trình và việc đi du học của thầy cũng đành gác lại. Mọi người đều kỳ vọng thầy trở về tiếp tục sự nghiệp. Nhưng thầy biết mình không đủ khả năng và đầy tâm huyết như sư phụ. Hơn nữa, lòng thầy đang ôm ấp nhiêù hoài bảo khác. Thầy những muốn đem tài học của mình phục vụ cho những mục đích cao rộng hơn là phải dừng chân nơi vùng đất xa xôi hẻo lánh này.

Sương mù đã tan….bầu trờì trở nên thoáng mát trong xanh khác thường. Thầy Đức Sơn rời khỏi ngọn tháp, chậm rãi đi ra phía khu rừng tràm. Cánh rừng trong buổi sớm mai vẫn còn hăng hắc mùi hương của nhựa cây hòa lẫn trong mùi sương đêm lãng đãng. Không cảnh yên tĩnh cùng với khí hậu trời thu mát dịu chẳng làm cho tâm hồn thầy dễ chịu hơn chút nào. Cánh rừng tràm quen thuộc in dấu một thời để chỏm ham tu mà vẫn thích chơi đùa nghịch ngợm. Thầy nhớ có một lần cùng sư đệ vào rừng hái nấm tràm, và bắt cả Dế đem về chơi đá với nhau. Sư phụ rầy, bảo đem thả Dế lại sau vườn cho nó được tự do. Con Dế được tự do chui ngay xuống lòng đất dưới bụi cỏ để tránh sự rình rập của con người. Con người dù được tự do bay khắp cả bầu trời, vậy mà có khi lại rơi vào thế không thể tự chủ được mình.

Thầy đứng lại dưới dàn hoa thiên lý bên một ngôi thiền thất. Đây là thất của sư bác Quản chúng, trước vẫn theo phụ giúp với sư phụ. Nay già yếu lại bịnh hoạn nên người mới cất riêng tịnh thất ở nơi này.

_ Mô Phật! Chào thầy trụ trì. Đi đâu mà sáng sớm lạc vào đây vậy. Xin mời vào trong này cùng uống chén trà sen cho ấm.

_ Dạ! Dạo này sư bác có khỏe không mà con thấy người ít qua bên chùa?

_ Bác có qua chứ. Tại thầy không về thường nên chẳng thấy đó thôi.

Thầy bước vào bên trong, kéo chiếc ghế mây ngồi đối diện với sư bác. Mùi trà sen thoang thoảng nhẹ nhàng tạo cho thầy cái cảm giác ấm cúng thân tình. Lâu lắm rồi thầy mới ngồi lại để uống trà đàm đạo với sư bác. Cũng với khung cảnh này nhưng tâm trạng thầy đã khác xưa. Khi ấy thầy là một học tăng nhiều ước vọng cao xa, mỗi lần về ghé qua Sư Bác vừa chuyện vãn thăm viếng vừa ngầm bộc lộ sự học hành thăng tiến của mình.

Sư bác chậm rãi rót trà ra tách cho thầy rồi nhẹ nhàng cất tiếng hỏi:

_ Dường như thầy không được vui. Buồn vì sư phụ mất sớm, hay việc du học bị gián đoạn? Cuộc sống ở đây chắc không phù hợp với chí của thầy. Vậy ý nguyện của thầy như thế nào?

Thầy hớp từng ngụm trà thơm, nhìn mông lung ra phía trước sân. Lác đác vài chiếc lá vàng rơi rụng hồi đêm nằm yên lặng trên mặt đất đầy vẻ cam chịu. Thầy hiểu, con người đôi khi cũng phải trải qua những cuộc chiến đấu đơn độc đối với bản thân. Được lời của sư bác như tiếp thêm sức, thầy bắt đầu nói. Thầy nói như chưa từng nói. Bao nhiêu tâm tư, rồi bấy nhiêu nguyện vọng lại được dịp tuôn ra. Sư bác chăm chú lắng nghe, thư thả châm trà thêm vào tách. Hơi trà bốc lên tỏa hương thơm nhè nhẹ theo gió thoảng bay đi, chỉ còn động lại nơi đây hai tâm hồn một già một trẻ cùng với bao nỗi cảm thông chia sẻ

Đợi cho thầy giải bày xong, sư bác mới tiếp lời. Người thông thả nói. Không một lời khuyên nhủ,không phân tích sự việc đúng sai. Người chỉ nói đến chuyện đời chuyện đạo. Chuyện ngày xưa chuyện bây giờ. Chuyện về những người trong thời kỳ nam tiến đi mở đất phá rừng. Họ kiên nhẫn miệt mài không vì cuộc sống của riêng mình, mà cho muôn thế hệ đời sau. Ai lại không có một thời tuổi trẻ thích rong chơi tìm kiếm, thích bới mộng tìm mơ. Điểm dừng đôi khi chỉ từ một khúc quanh ngã rẽ, nhưng lại có thể làm sáng lên một chân hướng khác. Tuổi trẻ bây giờ sống với quá nhiều ước mơ nên hay xa vời thực tế. Người biết ước mơ là đang nuôi dưỡng cho mình những lý tưởng cao đẹp. Nhưng lý tưởng của người tu sĩ ở ngay trong những việc làm dàn trải thông thường hằng ngày. Một nếp sống yên vui, một tâm hồn an định. Người biết sống vì mình vì ngừơi, biết yêu cái đẹp bên ngoài để hoàn thiện những cái đẹp của tâm hồn, thì đối với hoàn cảnh nào vẫn an nhiên tự tại.

Thầy từ giã ngôi thiền thất khi ánh ban mai chiếu những tia nắng đầu tiên xuống mặt đất. Những tia nắng vàng. Bầu trời trong xanh. Vạn vật tỏa sáng, làm cho núi rừng rạng rỡ … và không gian cùng cảnh vật bỗng trở nên thâm diệu vô cùng. Khi bước lên một ngọn đồi thấp, thầy chợt nghe có tiếng hát vang vọng từ phía bên kia. Một đoàn thanh thiếu niên Phật tử đang sinh hoạt ca hát. Thấy thầy đi qua, tất cả đều đứng dậy xá chào. Từng khuôn mặt trẻ trung toát lên vẻ hớn hở vui tươi pha lẫn niềm tin tưởng kính trọng. Sức sống của núi rừng dường như luôn ánh hiện trên những nụ cười ánh mắt đó. Ánh mắt của những tâm hồn biết sống, biết yêu thương cuộc sống. Lời sư bác nói vẫn còn văng vẳng bên tai thầy: “Tất cả mọi người đều mong đợi con về. Dù vậy con cứ hướng theo con đường mà mình đã định. Đạo phật là đạo giải thoát. Người tu hành tìm cầu giải thoát ngay trên mọi việc làm và ý tưởng tự nguỵên chứ không phải là sự gượng ép bó buộc”.

Trên con đường mòn nhỏ, những bác nông dân tay cầm cuốc xẻn đang đi tới. Họ dừng lại cúi chào thầy. Một vị lớn tuổi nhất bước lại thưa:

_Bạch thầy! Như vậy là thầy đã về đây hẳn rồi. Chúng con mừng lắm. Từ ngày thầy trụ trì viên tịch chúng con vẫn mong mỏi có thầy về. Vậy là từ nay ngôi Tam Bảo đã có người phụng sự lo toan và chúng con cũng được theo thầy để học đạo nghe pháp.

Thầy gật đầu cười với họ, hỏi thăm một vài câu thân tình ngắn ngủi. Cuộc sống đôi khi đơn giản hơn thầy nghĩ nhiều. Bởi vì thầy những muốn làm trăng sao chiếu sáng cả bầu trời, nên không nhận thấy rõ rằng: Chỉ cần một ngọn đèn nhỏ cũng đủ làm ấm lại bao tấm lòng người đang khao khát ánh đạo vàng nơi tận vùng quê heo hút này.

Về tới cổng chùa đôi chân thầy thoăn thoắt bước nhanh trên các thềm đá sỏi. Trước sân có vài người phật tử dáng vẻ trầm ngâm đang đi đi lại lại. Thấy Thầy họ ngần ngại như định nói điều gì. Thầy liền khóat tay với họ:

_Ngày mai mấy bác gọi thợ tới khởi công làm ngay đi. Phải khẩn trương cho xong các công trình trong năm nay. Đầu năm tới, vào ngày tiểu tường của Sư Phụ, Thầy sẽ tổ chức khánh thành và chuẩn bị mở khóa tu đầu tiên.

Sự hân hoan và mãn nguyện làm tan biến hết những nét hằn lo toan từ bấy lâu nay. Mọi người bắt tay vào công việc với tất cả niềm lạc quan tin tưởng. Nắng đã lên cao. Một ngày mới đang tiếp diễn. Thầy đứng nhìn ngọn tháp, nơi yên nghỉ của sư phụ, để nghe sâu xa trong cõi lòng mình bao thinh âm của ánh đạo mầu. Đây mới chính là cuộc sống. Cuộc sống thật sự bắt đầu từ những tia nắng ban mai vọng về trong tiềm thức, cuộc sống bắt đầu khi lòng người chợt nhận ra sự hiện hữu của chính mình ngay trong từng tâm niệm trở về.

---o0o---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7454)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8367)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7138)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6017)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6964)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5275)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8479)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22803)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4602)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]