Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi tượng Phật.

10/04/201311:41(Xem: 3322)
Đôi tượng Phật.

Đôi tượng Phật

Chiều dần buông, khách vãn chùa lần lượt ra về, chùa Bảo Quang trở lại ninh tịnh, yên ắng. Pháp sư Trí Thông bảo đám đệ tử hồi phòng ngơi nghỉ, còn tự mình quét dọn nhà chùa, phủi sạch bụi bặm trần ai, xua tan mọi huyên náo nóng nực của cả một ngày.

Khi đến bên tượng đồng Phật Tổ tọa ở hậu điện, làn chổi của Trí Thông khẽ chạm vào thân hình một người đang nằm co ro trên nền chùa và do đó khiến anh ta tỉnh giấc.

“Lạ thật, đến giờ này mà vị khách còn chưa chịu về?”. Trí Thông suy ngẫm, nghi hoặc. Người khách vội vàng đứng dậy, lễ phép thưa trình: “Tượng Phật đây vô cùng hiền từ sinh động, thần thái siêu phàm, thoạt trông đã không nén nổi cảm xúc nên vội vàng ghi lại đôi ba nét quý giá này. Đang khi lim dim suy nghĩ và thể hội hết vẻ đẹp diệu kỳ của pho tượng thì lạc vào cõi mộng lúc nào không hay và làm sư thầy bận tâm, thật có lỗi, dám xin sư thầy xá tội”.

Trí Thông đảo mắt nhìn người khách ăn bận giản dị, thân hình gầy gò với cặp kính trắng che đôi mắt long lanh, trên tay còn cả tập ký họa, nhà sư mỉm cười:“Con có thể cho ta xem những họa phẩm kia không?”.

“Dạ không dám, mong sư thầy đừng cười”, nói đoạn, người khách đưa cho Trí Thông tập ký họa. Quả nhiên trên trang giấy mỏng manh, những đường nét sinh động, hiền từ và cả thần thái siêu phàm của pho tượng Phật Tổ được khắc họa. Xem xong, ánh mắt Trí Thông ôn hòa trở lại, nhà sư hỏi: “Tượng Phật trong chùa có đến cả trăm, cớ sao con chỉ thích vẽ mỗi pho tượng này?”.

Người khách tươi cười: “Có thể con còn ngu dại, mong sư thầy bỏ qua, con mới dám nói… Theo con, các tượng khác đều là phàm tục, chỉ mỗi pho tượng này còn mang được đôi phần tiên khí.

Đầu óc Trí Thông bừng nóng, nhà sư nắm tay người khách, “Đi theo ta”, dẫn về phòng riêng của mình.

Trí Thông mời khách ngồi, dâng trà và nói: “Con thật có kiến giải, ta xem như thượng khách. Con thấy đấy, trong chùa này ngoài pho tượng đồng Phật Tổ, còn lại đều là giả!”.

“Đều là giả?”, người khách vặn hỏi.

“Những tượng Phật mà người trụ trì trước ta để lại, mười mấy năm nay đã hư hỏng, phải dựng mới. Nhưng thợ bây giờ khác trước xa, hồi ấy, tâm trung hữu Phật, thành tâm điêu khắc, bàn tay và tấm lòng là một, tạo nên tượng phẩm. Còn ngày nay, tâm trung vô Phật, chỉ nặn được hình hài mà không mang được thần sắc, âu cũng để lừa dối kẻ tục nhân. Những hoành phi, thư pháp treo ở đây cũng thế, toàn là bản sao, chính bản đã đưa về bảo tàng di tích (!) và đến cả hòa thượng cũng giả… con ạ (!)”.

“Sao? Hòa thượng cũng giả”.

“Ăn chay, mặc thiền mà lòng không quy Phật thì làm sao gọi là hòa thượng được? Ta có vài chục đệ tử nhưng chân tâm hướng Phật thì đã dễ mấy ai. Thân kề bên Phật mà lòng mong trần tục, cho nên họ cũng xem những Phật kia là giả, đều do đất đắp dựng và không cung kính”.

Người khách gật đầu lia lịa: “Sư thầy có lý, song những thứ giả ấy cũng không ngăn được tấm lòng thành của khách hành hương, mấy năm trở lại đây, nhà chùa vẫn đông vui, hương khói vẫn ấm áp kia mà?”.

“Cho nên ta không thể nhẫn tâm dùng cái giả để đánh lừa cái thật của mọi người. Nhưng trong những đoàn người hành hương vãn chùa đã mấy ai phân biệt được thật, giả?”. Nói đến đây Trí Thông đột nhiên đứng dậy: “Hiếm ai như con, có đôi mắt tinh tường, ta sẽ đưa con xem một cái thật nữa”.

Lát sau Trí Thông từ phòng trong bước ra, tay ôm hộp cẩm. Nhà sư mở hộp, lần giở lớp lụa mỏng thì hiện ra tượng Phật bằng ngọc, tư thế nằm nghiêng, đầu gối trên tay, kích thước cỡ bằng cuốn sách nhưng nom như hài nhi sơ sinh, sáng long lanh và vô cùng diễm lệ.

Người khách kinh ngạc, vội vàng đứng lên, mắt đắm vào ngọc Phật, hai tay giơ ra mà không dám chạm vào vật quý.

“Sao con?”.

“Tuyệt phẩm, vừa thoát khỏi trần tục, vượt lên thần khí, lại quy phục tự nhiên, con ngỡ Người sẽ nói điều gì, không dám chạm vào, sợ làm Người đau”.

Lòng Trí Thông xốn xang như lửa cháy, hận một điều là kẻ tu hành nên không tỏ bày tâm đắc cùng bạn tri âm kia.

“Con biết không? Ngọc phật bao giờ cũng thành đôi, pho kia còn tuyệt mỹ hơn pho này nữa”.

“Cầm bằng sư thầy cho xem ngọc Phật cả đôi thì dù cho từ hôm nay mắt con có vì thế mà mù lòa, không còn thấy gì nữa, con cũng cam lòng”.

Trí Thông vui mừng khôn tả, nhà sư lướt đi như bay, ôm ra hộp thứ hai…

… Khói trà vẫn nghi ngút tỏa lan, nhưng “kẻ tri âm” và ngọc Phật thì không còn nữa, vỏ hộp cẩm rơi xuống nền chùa.

Màn đêm buông xuống, chùa Bảo Quang ninh tịnh như bao năm xưa không dấu chân người.

Trí Thông mặt tràn lệ chảy, quỳ trước tượng Phật, mong tìm được một lời đáp từ trong khóe mắt và nụ cười hiền từ của Ngài, vì sao trên thế gian trần tục này, người ta xem cái giả là chân thật mà thờ phụng, chiêm ngưỡng, ngược lại cái thật lại cho là giả dối mà vứt bỏ, chối từ.

PHAN PHONG (Theo Tuyển tập Truyện ngắn Trung Quốc)

----o0o---

Nguồn: http://www.sggp.org.vn/SGGP12h/2007/9/119990/
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2010(Xem: 4747)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 5070)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 9616)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 3788)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 3965)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 6091)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]