Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu bụi (tập truyện)

10/04/201311:37(Xem: 12843)
Tu bụi (tập truyện)

301tubui

Tu bụi

Trần Kiêm Đoàn

tg

Lời mở

Tu Bụi Là Tu Giữa Bụi Trần

Tu giữa đời thường, sen trong lửa,

“Tu bụi” là tu giữa bụi trần.

Xin được viết đôi dòng cảm nghĩ của mình về tác phẩm Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn.

Số là rất tình cờ, tôi và anh Đoàn cùng dạy lớp mùa Hè ở trường Pacific Lutheran University tại Olympia, Washington State, tháng 6 năm 2001. Hai chúng tôi được xếp chung hai phòng sát nhau trong cư xá giáo sư trường đại học PLU và cũng là hai người Việt duy nhất ở đây. Anh Đoàn dạy môn Psychotherapy (Tâm Lý Trị Liệu) và tôi dạy môn Physiotherapy (Thể Lý Trị Liệu) nên có dịp làm việc chung trong khóa học. Tôi ham thể thao, anh Đoàn ham viết lách, nhưng trời Olympia mưa nhiều hơn nắng, nên tôi thường bị bó chân trong cư xá sau giờ dạy. Ở nhà nhiều, tôi đâm ra tò mò vì thấy ngày nào, đêm nào, ngoài giờ lên lớp, người ở phòng bên cạnh cũng say sưa gõ máy.

Hỏi ra, mới biết anh Trần Kim Đoàn đang viết một cuốn truyện dài bằng tiếng Việt. Sống xa quê hương từ năm 1965, tiếng Việt đối với tôi là một “linh tự” vì đó là tiếng nói yêu thương của ngày xưa Quê Mẹ. Đến khi đi mòn chân, gần khắp hết các nẻo đường xứ người, tôi mới hiểu và cảm thấy yêu một nhân vật trong sách Giáo Khoa thuở nhỏ tôi học, khi ông ta đi khắp bốn phương và trở lại làng cũ nói rằng: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương ta!”. Đẹp, vì đó là nơi mẹ tôi đã sinh tôi ra và tập cho tôi tiếng nói đầu đời bằng tiếng ru của Mẹ. Tôi yêu Quê Hương, yêu Mẹ nên yêu Tiếng Nói của Mẹ mình.

Học tiếng người, nói tiếng người, viết tiếng người, dạy tiếng người, nên tôi thèm tiếng Mẹ. Tôi đã năn nỉ với anh Đoàn cho tôi đọc những trang tiếng Việt mà anh đang viết. Lúc đó, tuy anh mới viết ba chương bản thảo trong số vài ba chục chương dự định cho tập sách, nhưng cũng đồng ý cho tôi xem. Tập sách tương lai chưa có tên. Tác giả chỉ cho biết đơn sơ rằng, anh muốn đem tinh thần hóa giải của Phật giáo để giải quyết những vấn đề khúc mắc trong tâm lý nhân vật của cuốn truyện.

Khi tôi hỏi về nhan đề cuốn sách, anh Đoàn đưa ra nhiều tên mà anh đang nghĩ đến để hỏi ý tôi. Trong số những tên làm tôi chú ý, có tên “Tu Giữa Bụi Trần”. Tôi liền đề nghị với tác giả rút gọn bốn chữ thành hai chữ là… Tu Bụi! Vốn là nhà giáo và cựu huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam, anh Đoàn hơi giật mình vì cụm từ “tu bụi” nghe có vẻ “phiêu bạt giang hồ” quá. Nhưng tôi đã cố thuyết phục và đã được tác giả chấp nhận. Tôi đã đưa ra ý kiến rằng: Về nội dung, “Tu Bụi” mang một hình tượng dấn thân của kẻ hành đạo giữa thế giới Ta Bà; về hình thức, “Tu Bụi” có một độ bám đặc biệt, khó chìm trong một thế giới đầy chữ nghĩa và danh từ hoa mỹ. Nó níu được sự tò mò và chú ý của người đọc. Nếu so với những tên khác nghe có vẻ thuần thành, văn vẻ hơn nhưng lại trơn tuột, đọc xong sẽ quên ngay.

Thế là khái niệm “tu bụi” ra đời như một cái duyên vừa thuận vừa nghịch. Thuận, vì nói lên được tinh thần nhập thế của sự tu hành; đồng thời, nắm bắt được sự tò mò chú ý và quan tâm của người đọc. Nhưng nghịch, vì hình tượng chữ nghĩa quá mới mẻ và đầy tính phiêu lãng, chưa hề có ai dùng.

Chờ mãi cho đến bốn năm sau tôi mới được đọc chương cuối cùng của Tu Bụi.

Tôi rời xứ Việt và nhập vào dòng Phật giáo SriLanka đã hơn 40 năm nay. Tôi thuộc Đạo Tràng Tân Tích Lan Thiền Tông (New Theravada Sangha of Ceylon). Đây là một đạo tràng chủ trương đổi mới, tu và tìm sự giải thoát ngay giữa cuộc đời này.

Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố. Từ vị trí của một vị hoàng thân, được tiên vương Gia Long tin tưởng, nhưng lại bị tân vương Minh Mạng nghi ngờ, nhân vật Trí Hải từ địa vị cao sang, bước vào cuộc đời gió bụi. Ông ta cũng có khi bị trôi nổi, vùi dập trong từng chặng đời khi lên, khi xuống qua hoàn cảnh sống và qua suy tư của riêng ông. Gặp những lúc khó khăn và khúc mắc nhất trong cuộc sống, Trí Hải phải dựa vào tinh thần hóa giải của đạo Phật để tìm ra phương hướng giải quyết. Hóa giải theo tinh thần đạo Phật trong Tu Bụi có ba cấp độ: Biết rõ vấn đề như một khổ nạn tất yếu của cuộc sống; hiểu rõ và dấn thân sống thật với vấn đề; và sử dụng toàn trí, toàn tâm để chuyển hóa khổ ách từ tình trạng bị dính mắc và trói buộc đến buông xả, tự do trong tinh thần từ bi và trí tuệ nhân bản đượm mùi Phật giáo. Đấy là cách giải quyết vấn đề ít thiệt thòi nhất và không gây đau khổ cho mình và cho người bởi vì cốt tủy của sự thay đổi hay “tu” là chuyển hóa thực tế chứ không tiêu diệt vấn nạn bằng danh từ suông hay bằng sự ỷ lại siêu hình, dễ dãi nào cả. Như lối thoát cho một cuộc tình đầy đam mê, thơ mộng nhưng ngang trái giữa Trí Hải và Ba Gấm không phải là một ngõ cụt của tuyệt vọng, hủy hoại mà là một sự chuyển hóa từ dục vọng tầm thường vươn lên cao thành ra lòng thương quý và sự hy sinh cao thượng cho mình và cho người. Từ gốc rễ, Trí Hải, nhân vật chính trong truyện, không phải là người theo đạo Phật, nhưng ông đã học và đã thực hành tinh thần đạo Phật qua hai nhân vật tu sĩ là sư Trúc Lâm và thầy Tiều. Tuy phương pháp tu hành khác nhau, thầy Tiều đi vào đời sống xô bồ đời thường và sư Trúc Lâm đi vào đời sống thanh tịnh ẩn dật, nhưng cả hai vị tu sĩ này đều thấy rõ được bản chất cá nhân để chọn pháp môn thích hợp cho mình và cho đời. Tôi có cảm tưởng như hai nhà sư xuất hiện giữa đời này khác nhau như Sao Hôm, Sao Mai; nhưng từ trong cội nguồn, họ là Sâm Thương, là một, là hai lữ hành cùng bước đi trên một con đường Trí Tuệ dẫn về phương giải thoát.

Về hình thức văn chương, Tu Bụi không phải là một tác phẩm tiểu thuyết (fiction) đúng nghĩa; mà cũng chẳng phải là một tác phẩm biên khảo hay lịch sử mang tính phi tiểu thuyết (non-fiction) thực sự. Nhiều đoạn văn đẹp và giàu vần điệu trôi chảy như thơ. Nhiều đoạn văn lý luận mang tính triết học và phân tích tâm lý rất sâu và trừu tượng. Cũng có những đoạn văn trình bầy sự kiện lịch sử, dữ kiện xã hội và khoa học có thật để làm bối cảnh cho dòng tưởng tượng trôi chảy. Nhưng thật ra, chất liệu “lịch sử” trong Tu Bụi thường chỉ là một cái cớ được dựng lên bằng dữ kiện trộn lẫn với tưởng tượng và sự sáng tạo đầy tính nghệ sĩ và phóng khoáng của tác giả. Bởi thế, nếu đi tìm lịch sử trong Tu Bụi thì phải tìm bằng tiếng hát tuyệt vời của chàng Trương Chi tưởng tượng bên cạnh Mỵ Nương là nàng công chúa yêu kiều đâu đó trong lịch sử.

Theo tôi, đây là một tác phẩm mang đạm nét tinh thần đạo Phật, lý giải được một số tín điều cũng như quan niệm triết học vẫn còn nằm sâu trong góc khuất tư tưởng. Với cảm nhận nghệ thuật riêng, tôi nhận định rằng, Tu Bụi vừa lôi cuốn, vừa kéo, vừa đẹp về cả ba phương diện: Văn học, triết học và đạo học. Đây là một đạo Phật gần với triết lý sống thật giữa đời hơn là chìm sâu trong thế giới tâm linh thuần tôn giáo.

Tuy nhiên, điểm nổi bật hơn cả là cái Tâm của người viết. Đấy là tấm lòng hướng đến điều thiện. Tác giả Trần Kiêm Đoàn đã dùng một lối hành văn trôi chảy, uyển chuyển, giàu hình tượng và ví von, đầy cảm xúc. Ngay cả trong lý luận thì hình ảnh và cảm tính nghệ thuật cũng đã được vận dụng một cách tài hoa. Lắm lúc, sự lãng mạn tràn trề hay phẫn nộ bùng vỡ, nhưng vẫn giữ được vẻ tròn trịa, quý phái và cổ kính trong ý, trong từ và trong điệu văn.

Trong một e-mail từ Colombo gửi cho anh Trần Kiêm Đoàn nhân dịp Tết Bính Tuất năm nay, tôi có đùa rằng: “Nếu khi đọc Tu Bụi xong mà người ta nôn nóng muốn thử “tu bụi” như thế nào và muốn gặp một “thiền sư tu bụi” coi thử ra sao… thì tác phẩm mới được xem là thành công. Và biết đâu rồi sẽ có một dòng… Tu Bụi ra đời về sau này”.

Có muôn vàn thứ bụi và lớp bụi trong Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn: Bụi đời, bụi tham, bụi danh, bụi tình, bụi nghĩa… cấu kết thành bụi vong tình. Mỗi thứ bụi đều khoác bằng những lớp áo nhiều vẻ, nhiều màu đầy cuốn hút.

Gần một nghìn năm trước, năm 1096, trong lễ trai tăng của hoàng thái hậu Phù Cảm Linh Nhân ở Giao Châu, thiền sư Trí Không đã nói đến ý nghĩa tu và giác ngộ rằng: “Tất cả mọi sinh linh đều có bản tính giác ngộ, chỉ vì bụi vong tình che lấp, trôi theo nghiệp báo mà lưu lạc mãi trong vòng ngũ thú. Phủi được hàng hàng lớp lớp bụi vong tình ấy thì chân tâm hiển hiện, Phật tính tỏ bày”.

Nếu chỉ phủi bụi bằng đôi tay và cây chổi của đời thường thì chỉ làm cho những lớp bụi có cớ dày thêm. Bụi đời chỉ có thể rửa sạch bằng đôi mắt thương (từ nhãn) và bằng tấm lòng trung chính (chân tâm), Tác phẩm Tu Bụi đã thành công trong việc gợi ý “quét bụi trần gian” qua nghệ thuật kết cấu mang tính biểu tượng (symbolism) và tâm lý nhân vật được xây dựng mang tính cường điệu sáng tạo (creative exaggeration) gây ấn tượng sâu và đậm cho người đọc.

Tu bụi để phủi được lớp bụi vong tình.

Trong dòng suối cũ tâm linh, có một con nước, rất mới.

Mahinda Phúc Nguyễn1

Colombo, Tích Lan - mùa Xuân 2006

----------------------------------------------


1 Trong bài tựa bằng tiếng Việt của Bác sĩ Mahinda Phúc Nguyễn, có một số lỗi chính tả và ngữ pháp do tác giả đã sống xa quê hương quá lâu, hơn 40 năm, không thường xuyên tiếp cận với ngôn ngữ Việt. Tôi đã xin phép được hiệu đính khi in lại thành “Lời Mở” trong tập sách này và cắt bớt những phần có liên quan đến trang web, nhưng không liên quan đến tập sách. Mọi sự hiệu đính và thêm bớt cho thích hợp với Bài Tựa đều căn cứ theo tinh thần căn bản của bài viết nguyên văn bằng tiếng Anh nhan đề “DUSTING OFF THE ENEMIES WITHIN” của Mahinda Phuc Nguyen, Ph.D; MD đăng trên mạng lưới Đạo Tràng Tân Tích Lan (NewCeylonSangha.org. Số January. 2006). Xin cảm ơn và đồng thời xin cáo lỗi với tác giả TKĐ


-

----o0o---

Nguồn: Phương trời cao rộng
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2022(Xem: 7454)
Dân tộc Việt Nam học và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước khi Pháp sư Huyền Trang quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân chính.
04/01/2022(Xem: 8368)
Không hiểu sao mỗi khi nhớ về những sự kiện của năm 1963 lòng con bổng chùng lại, bồi hồi xúc động về quá khứ những năm đen tối xảy đến gia đình con và một niềm cảm xúc khó tả dâng lên...nhất là với giọng đọc của Thầy khi trình bày sơ lược tiểu sử Đức Ngài HT Thích Trí Quang ( một sưu tầm tài liệu tuyệt vời của Giảng Sư dựa trên “ Trí Quang tự truyện “ đã được đọc tại chùa Pháp Bảo ngày 12/11/2019 nhân buổi lễ tưởng niệm sự ra đi của bậc đại danh tăng HT Thích Trí Quang và khi online cho đến nay đã có hơn 45000 lượt xem). Và trước khi trình pháp lại những gì đã đươc nghe và đi sâu vào chi tiết bài giới thiệu Bộ Pháp Ảnh Lục cùng lời cáo bạch của chính Đức Ngài HT Thích Trí Quang về bộ sách này, kính trich đoạn vài dòng trong tiểu sử sơ lược của HT Thích Trí Quang do Thầy soạn thảo mà con tâm đắc nhất về;
04/01/2022(Xem: 7138)
Trên đất nước ta, rừng núi nào cũng có cọp, nhưng không phải vô cớ mà đâu đâu cũng truyền tụng CỌP KHÁNH HÒA, MA BÌNH THUẬN. Tỉnh Bình Thuận có nhiều ma hay không thì không rõ, nhưng tại tỉnh Khánh Hòa, xưa kia cọp rất nhiều. Điều đó, người xưa, nay đều có ghi chép lại. Trong sách Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí (1) của Thượng Thư Bộ Binh Lê Quang Định soạn xong vào năm 1806 và dâng lên vua Gia Long (1802-1820), tổng cộng 10 quyển chép tay, trong đó quyển II, III và IV có tên là Phần Dịch Lộ, chép phần đường trạm, đường chính từ Kinh đô Huế đến các dinh trấn, gồm cả đường bộ lẫn đường thủy. Đoạn đường ghi chép về ĐƯỜNG TRẠM DINH BÌNH HÒA (2) phải qua 11 trạm dịch với đoạn đường bộ đo được 71.506 tầm (gần 132 km)
04/01/2022(Xem: 6017)
Ngoài tên “thường gọi” là Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, cọp còn có tên là Khái, là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng), Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông Thầy (cọp thành tinh). Dựa vào tiếng gầm của cọp, cọp còn có tên gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da là Gấm, là Mun ... Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả, vì sợ cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam Bộ thời xưa. Cọp cũng được con người gọi lệch đi là Ông Ba Mươi. Con số ba mươi này có nhiều cách giải thích: - Cọp sống trung bình trong khoảng ba mươi năm. - Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán. - Xưa, triều đình đặt giải, ai giết được cọp thì được thưởng ba mươi đồng, một món tiền thưởng khá lớn hồi đó. - Tuy nhiên, cũng có thời, ai bắt, giết cọp phải bị phạt ba mươi roi, vì cho rằng cọp là tướng nhà Trời, sao dám xúc phạm (?). Ngày nay, cọp là loài vật quý hiếm, có trong sách Đỏ, ai giết, bắt loài thú này không những bị phạt tiền mà còn ở
30/12/2021(Xem: 6964)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
25/12/2021(Xem: 5275)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông. Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Qu
23/12/2021(Xem: 3964)
Chánh Điện của một ngôi Chùa tại xứ Đức, cách đây hơn 40 năm về trước; nơi có ghi hai câu đối: "Viên thành đạo nghiệp Tây Âu quốc. Giác ngộ chúng sanh đạo lý truyền", bây giờ lại được trang hoàng thật trang nghiêm và rực rỡ với các loại hoa. Đặc biệt nhất vẫn là những chậu cây Trạng Nguyên nhỏ to đủ kiểu, nổi bật nhất vẫn là những chiếc lá đỏ phía trên phủ lên những chiếc lá xanh bên dưới. Ai đã có ý tưởng mang những cây Nhất Phẩm Hồng, có nguồn gốc ở miền Nam Mexico và Trung Mỹ vào đây? Và theo phong thủy, loại cây này mang đến sự thành công, đỗ đạt và may mắn.
10/12/2021(Xem: 8479)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
09/12/2021(Xem: 22803)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
08/12/2021(Xem: 4603)
Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư, vị đại học giả, vị Luật sư, Thiền sư nổi tiếng, vị Tổng vụ trưởng xuất sắc trong việc quản lý các vấn đề hành chính Phật giáo. Ngài được ca tụng lảu thông Tam tạng giáo điển, lý sự viên dung. Già San Đường Trí Quán Đại Tông Sư (가산당 지관대종사, 伽山堂 智冠大宗師, 1932-2012) tục danh Lý Hải Bằng (이해붕, 李海鵬), theo tộc phả tên Chung Bằng (종붕, 鍾鵬), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 32, Phật giáo Hàn Quốc, hiệu Già Sơn đường Trí Quán Đại tông sư (가산당지관대종사, 伽山堂智冠大宗師), sinh ngày 14/6/1932 (05/11/Nhâm Thân), nguyên quán làng Cheonghae-myeon, huyện Gyeongju, tỉnh Gyeongsangbuk-do, Đại Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Lý Khuê Bạch (이규백, 李圭白) và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Kim Tiên Y (김선이, 金先伊). Gia đình truyền thống Phật giáo lâu đời, kính tin Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]