Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về đến quê xưa tìm gốc rễ

12/12/201507:17(Xem: 4267)
Về đến quê xưa tìm gốc rễ


Ve den que xua_hoa lan thien gioi (6)
Về đến quê xưa tìm gốc rễ

 

Tôi xa Hà Nội năm tôi một tuổi khi vừa biết đi. Ấy thế mà mãi tận năm mươi năm sau, tôi mới có dịp đặt chân lên mảnh đất thân thương đấy! Các bạn hãy mừng cho chuyến đi này của tôi. Thật không tầm thường chút nào! Này nhé! Tôi được tháp tùng Ni Sư Linh Thứu ở Berlin và Sư Cô Như Giác ở Sài Gòn. Hai vị này đại diện cho chùa Linh Thứu ở Berlin, đem ba mươi hai chiếc xe lăn và hàng trăm phần quà, làm cuộc hành trình về phương Bắc quyết phá tan lũ giặc đói nghèo. Nói thế cho oai, chứ bàn tay bé nhỏ làm sao che hết nổi mặt trời. Làm được chút nào vui chút ấy, nghĩ ngợi nhiều quá sợ vướng căn bệnh Tham Sân Si, tuy cái Tham từ thiện rất dễ thương, nhưng đã gọi là Tham thì không tốt.

Hai địa điểm được chọn để phát xe lăn là vùng đồi núi tỉnh Ninh Bình và các huyện nghèo ở chung quanh tỉnh Hà Tây. Có bạn sẽ tự hỏi, tại sao chương trình xe lăn của Ban Từ Thiện chùa Linh Thứu lại nhiêu khê, lặn lội vác xe ra tận chốn này chi cho tốn kém. Người khổ ở trong Nam thiếu gì, phát gần gần sáng đi chiều về, có phải khỏe thân không? Vâng, các bạn nghĩ rất hợp lý. Nhưng từ lúc thành lập chương trình xe lăn vào đầu Xuân 2000 đến giờ đã hơn năm năm, chương trình đã vác xe đi khắp các miền trên đất nước, chưa thấy nơi nào còn xa lạ với hai chữ “Từ Thiện“ như những vùng quê nơi đất Bắc. Lúc trước, từ chính quyền cho đến người dân, không ai chịu tin nổi là trên đời này có người dại khờ, dám đem bạc triệu ra mua xe tặng không cho những người xa lạ. Chắc có mưu đồ hay điều kiện gì đây? Các bạn ạ! Điều kiện thì không có, mưu đồ cũng chẳng xong. Chỉ mong muốn sao: Sáng mang niềm vui đến cho người, chiều làm cho người bớt khổ. Làm tốt hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền mà thôi.

 

Lúc phái đoàn sửa soạn ra Bắc, nghe tin tức các đài, biết cơn bão lớn đang tàn phá các tỉnh ở Yên Bái, Nam Định và Thanh Hóa. Ni Sư Linh Thứu đã kết hợp với phái đoàn cứu lụt của chùa Bảo Quang ngoài Đà Nẵng. Điểm hẹn là núi đồi Yên Bái, nơi đang bị bão lụt nặng nhất, gây thiệt hại cả tính mạng lẫn tài sản nhiều người.

Kinh nghiệm của phái đoàn đi làm công tác từ thiện là ngày ra đi hành trang còn chất đầy những nốt nhạc Đô và La tuyệt vời chật túi. Đến ngày về phái đoàn chỉ là những kẻ khố rách áo ôm và nợ như Chúa chổm. Nhưng được cái an ủi là ai ai cũng sẵn lòng móc túi cho mượn tiền để trả về sau. Chúng tôi đã ký những giấy nợ bằng miệng một cách chớp nhoáng không cần suy nghĩ. Tôi xin đi sâu vào chi tiết từng chuyến đi cho các bạn rõ, kể cho đáng "đồng tiền bát gạo" mới thôi.

Vì Ni Sư Linh Thứu và Sư Cô Như Giác phải tham dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng chùa Hương Sơn ở Ngũ Hành Sơn, nên tôi được dự ké xem thắng cảnh Đà Nẵng. Sau đó lại vội vã ra Hà Nội. Điểm đầu tiên chúng tôi đến Nho Quan. Con đường từ Hà Nội đến Nho Quan chỉ hơn một trăm cây số, nhưng đoạn sau không còn đường cao tốc nữa mới lắm gian nan. Hình ảnh con đê đường làng với những ruộng lúa mới gặt, vài con trâu nằm gặm cỏ hoặc lội bùn bên những hàng cau thẳng tắp, không còn là hình ảnh trong trí tưởng tượng nữa. Tôi khoan khoái ngắm cảnh, ngửi bụi mù và ngâm hai câu thơ cải biên:

Về đến quê xưa tìm gốc rễ.

Đi qua cầu khỉ rớt đường mương!

Ve den que xua_hoa lan thien gioi (1)Sư Cô Như Giác phải kéo tay lôi tôi trở về chánh niệm. Và may quá Sư Ông Làng Mai không có ở đây để khõ đầu tôi về tội dám đổi lời hai câu thơ tuyệt diệu của Người: “Về đến quê hương tìm gốc rễ. Đi qua cầu Hiểu đến cầu Thương“.

Các bạn ơi! Có một điều Sư Cô và tôi rất đau lòng vì những tấm bảng gắn dọc đường của các hàng quán ở khu vực này. Đã quá ba phần tư là món ăn dân tộc thịt “cầy“, mèo, chó gì cũng xơi tuốt!

Tôi nghĩ cũng cùng một thân chó, tại sao không vào những gia đình ở phương trời Âu đất Mỹ. Thân phận có khi còn được xếp cao hơn cả ông chủ nữa. Sinh chi ra ở đất này cho người ta làm bảy món, cho người ta cuộn với Lá Mơ rồi nhâm nhi câu: Sống ở trên đời...

Ve den que xua_hoa lan thien gioi (3)

Đi mãi rồi cũng phải đến, mặt trời đã lên cao làm người tôi muốn bốc hỏa. Khi xe chúng tôi luồn lách một cách khó khăn qua các ngõ hẻm chỉ vừa đủ chiều ngang một chiếc xe, thì mọi người đã quy tụ đầy đủ ngoài sân. Một thiếu sót kỹ thuật đáng kể trong buổi phát xe tại Ninh Bình. Chẳng là phái đoàn bận ra Đà Nẵng nên không nhận được danh sách người nhận xe, để viết sẵn bảng tên ở nhà. Đến nơi Sư Cô Như Giác mới giao cho tôi viết, làm sao viết kịp, nhờ các Thầy của Chùa viết hộ họ lại viết sai. Các bệnh nhân khuyết tật chờ lâu cũng mệt, người nhà họ thấy xe lăn để mời mọc, bèn bế họ lên ngồi tạm. Phát sinh ra cảnh "Râu ông nọ cắm cằm bà kia", thành xe tên người này, bảng cầm tên người khác. Họ cãi nhau chí chóe, đã lỡ ngồi lên xe rồi không ai muốn đổi nữa!

Sư Cô Như Giác và tôi phải chia nhau ra dẹp loạn, phải chụp hình từng chiếc, kiểm soát kỹ lưỡng từng tấm hình mới dám để họ ra về. Đến trưa còn sót lại một vài chiếc, vì người nhận ở quá xa hay di chuyển không được, phái đoàn phải đến tận nhà để phát xe. Ni Sư hỏi han những trường hợp đặc biệt và trao cho họ câu niệm Phật. Có thể đây là lần đầu tiên họ nghe đến điều này.

Tí nữa tôi quên, buổi sáng đài truyền hình địa phương cũng cử hai ba nhân viên vác máy đến quay phim. Cả huyện có tin giật gân. Một phái đoàn từ thiện ở đâu xa lắc đến cho không các người khuyến tật xe lăn, tổng giá trị món quà lên đến gần hai mươi triệu chứ phải chơi!

Đến chiều khi chiếc xe lăn cuối cùng đã trao đến tận nhà, chúng tôi từ giã vùng núi Nho Quan về chùa Diên Phúc ở Hà Tây, sửa soạn cho chuyến phát 16 xe còn lại và 40 phần quà vào ngày mai.

Khi xe chạy ngang Hà Đông, đến nơi dệt lụa nổi tiếng của tỉnh này. Tôi vẫn mang một đề tài muôn thuở là ngâm thơ cải biên:

Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt rét.

Bởi vì em là sư tử Hà Đông.

Chẳng ngờ hai câu thơ làm Sư Cô Như Giác tỉnh giấc nồng, Sư Cô mắng yêu:

-             Thiện Giới chỉ giỏi đổi thơ người ta thôi!

Đường vào chùa Diên Phúc cũng lắm gian nan, qua bao nhiêu bụi tre, ruộng lúa mới đến được cổng Tam Quan. Chùa thuộc diện Chùa Cổ Di Tích Lịch Sử không được đổi thay.

Sư Trụ trì là bạn đồng học với Sư Cô Như Giác, ra đón với nụ cười răng đen hạt huyền thật tươi. Tôi được sống hai ngày tại ngôi chùa cổ, như hình ảnh trong bài thơ Nhớ Chùa của Thi sĩ Huyền Không:

 

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng.

Có con đường đỏ chạy lang thang.

Có hàng tre gợi hồn sông núi.

Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng.

………….

Đây ngôi chùa Cổ ngày hai buổi. Cầu nguyện dân làng sống yên bình.

Mái chùa che chở hồn dân tộc.

Nếp sống muôn đời của Tổ tông.


Ve den que xua_hoa lan thien gioi (4)Ve den que xua_hoa lan thien gioi (2)
Ve den que xua_hoa lan thien gioi (5)

Sáng hôm sau phái đoàn lo phát xe lăn và quà tại ngôi chùa nhà, nên rất thảnh thơi. Mọi việc đã có Sư Trụ trì và Phật tử chùa lo hết. Việc phát xe diễn ra trong trật tự, Ni Sư và Sư Cô Như Giác còn đủ thời giờ đi hỏi han các cháu bé đáng thương. Một bé gái học giỏi dễ thương, khiến Ni Sư có ý định đưa về Bệnh Viện Phục Hồi Chức Năng ở Sàigòn để chữa trị. Phần tôi mải lo chụp hình tối mặt nên chẳng hỏi han được ai. Gặp một ông cụ mặt mũi dạn dày sương gió, định giơ máy hình lên ngắm cho rõ nên nhỏ nhẹ nói:

-        Cụ làm ơn ngẩng mặt lên một chút!

Các người nhà con cháu cụ nhao nhao lên nói:

-        Cụ cười lên nào! Cười cho thật tươi. Ông cụ tuôn ra một tràng:

-        Khổ bỏ mẹ đi! Còn cười thế nào được!


Tôi phải chụp nhanh cho cụ đem xe về, nhỡ để lâu cụ lại xổ ra vài tràng chữ Nho thì nguy.

Đến trưa mọi việc đều xong, xét lại còn ba xe phải đưa đến tận nhà, hoặc đến chiều con cháu họ chở đến. Tuy nhiên chương trình buổi chiều còn phải đến Trại Phong ở Huyện Quốc Oai để phát 130 phần quà. Trại nằm ở sâu trong vùng núi nên khí hậu dễ chịu hơn. Bác sĩ tại đây cho biết Bệnh Phong đã bị diệt trừ từ những năm 80, khả năng lây bệnh không còn nữa. Những người được điều trị ở đây là căn bệnh Hậu Phong Biến Chứng. Trại này đã được Hội đoàn của người Đức bảo trợ, nguyên hệ thống điện nước đã được làm mới từ năm ngoái. Thôi cũng mừng cho các bệnh nhân ở Trại Phong Hà Tây.

Trên đường về lại chùa Diên Phúc, tôi cố nài xin được viếng Chùa Thầy. Quả tình tôi nghe gà hóa quốc, cứ tưởng chùa Thầy là chùa Đậu chứa nhục thân của hai vị Bồ Tát nên nằng nặc đòi đi. Sau được giải thích là của Thiền sư Vạn Hạnh nơi nuôi ngài Lý Công Uẩn, ai đem con thơ bỏ chùa này. Cuối cùng cũng sai bét, thôi đành đi luôn.

Về đến nơi tôi được tắm rửa thoải mái đi dạo cảnh Chùa. Còn Sư Cô Như Giác phải đem xe lăn đến tận nhà chụp hình đến tối mịt mới về, người thơm mùi tôm cá. Sư Cô hớn hở khoe, trên đường về gặp một gánh cá tươi rói, Sư Cô đòi mua để phóng sanh. Bên kia vì tình thế bắt buộc nên phải bán rẻ. Sư Cô ôm giỏ cá vào lòng chạy ra bờ sông chú nguyện cho chúng được quy y Tam Bảo. Nhỡ mai có chui vào bụng tay bợm nhậu nào cũng biết được Phật pháp, chóng được vãng sanh. Sư Cô vui sướng ra mặt nói, với số cá này ở Sài Gòn Sư Cô phải trả giá gấp ba. Bù lại Sư Cô phải giặt ngay bộ quần áo thơm mùi bất tịnh đáng sợ này.

Theo đúng chương trình chúng tôi được nghỉ ngơi một ngày, để chờ phái đoàn cứu lụt của chùa Bảo Quang từ Đà Nẵng ra. Đến tối điện thoại reng cho biết Ni Sư đã đổi lộ trình ra Thanh Hóa. Đường lên Yên Bái bị lở, xe lớn không vào được. Cách chỗ cứu trợ mười cây số, xe hơi phải bỏ lại, chỉ xe gắn máy hoặc người đi bộ mới được vào. Chúng tôi đành hủy chuyến đi, tìm đường trở về thành phố sớm.

Trước khi giã từ đất Bắc, chúng tôi được một anh Phật tử cho đi vòng quanh kiểu cưỡi ngựa xem hoa. Tìm lại nơi chôn nhau cắt rốn của Sư Cô Như Giác tại đường Hoàng Hoa Thám và của tôi tại phố Mai Hắc Đế. Các bạn có tin rằng cả ba người trong phái đoàn Bắc Du đều tuổi Quý Tỵ cả không? Làm thân con gái nếu không xuất gia thì phải xuất giá. Tôi vì bản “Nhạc Sầu Tương Tư“ của người ấy mà phải chọn con đường thứ hai để trả cho xong món nợ tình.

Được đi một chuyến thế này cũng đủ mãn nguyện lắm rồi, chẳng dám kêu ca.

Về chùa Bảo Vân ở thành phố, tôi bị bắt cóc ở chùa một ngày để viết bài và sang hình ra máy vi tính với Sư Cô Như Giác. Sau buổi điểm tâm, Ni Sư đã ân cần dẫn tôi lên một phòng thoáng mát biệt lập ở trên lầu cao để viết bài. Tuy không dọa nạt nhưng vẫn hiểu rằng, nếu chưa nộp bài thì chưa được về. Thỉnh thoảng Ni Sư vẫn ngầm cho người đưa lên trái dừa xiêm để bồi dưỡng. Hay vào phòng hỏi han xem tôi nguồn thơ đã lai láng đến đâu. Giống như hình ảnh của ông chủ bút đi đòi bài của các phóng viên cắc ké.

Viết mãi rồi cũng phải xong, tôi nộp bài cho hai vị Trụ Trì, rồi thu dọn tàn binh tìm đường tẩu sớm.

Chúc các bạn một ngày vui, thân tâm an lạc.

Hoa Lan - Thiện Giới.

2005.

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2014(Xem: 43945)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4507)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4420)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4341)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6461)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4756)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4173)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25623)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24442)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
17/08/2014(Xem: 21592)
Nhân quả là định luật căn bản xuyên suốt quá trình thành trụ hoại diệt của tất cả chúng sinh từ đời này sang đời khác, cho đến vũ trụ, vạn vật cũng không phải tuần hành, biến dịch một cách ngẫu nhiên, vô lí, mà luôn tuân theo định luật nhân quả. Định luật này không do một đấng thần linh nào, xã hội nào đặt ra cả, mà là luật tự nhiên, âm thầm, lặng lẽ, nhưng luôn đúng đắn, chính xác, hiệu quả vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]